Thông Điệp của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Xử Lý Viện Tăng Thống, kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất gửi chư Tôn Đức Tăng, Ni cùng đồng bào Phật Tử trong và ngoài nước lời chúc mừng nhân ngày Phật đản sinh, và bày tỏ tâm nguyện phát huy sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, chuyển vận thời cơ, hoàn mãn Phật sự. Ngài nêu lên 2 ý nghĩa lớn rộng của các Quốc Gia thành viên Liên Hiệp Quốc trên địa cầu này đó là: “Ý nghĩa quan trọng thứ nhất mà chúng ta nhận thấy, là trong cuộc khủng hoảng tư tưởng và chínhh trị thế giới, biểu hiện qua các nạn độc tài và khủng bố ngày càng phổ biến, Liên Hiệp Quốc nhận ra chiếc phao cứu độ nhân sinh chính là giáo lý từ bi, khoan hòa, an lạc của Phật Giáo”, “Ý nghĩa thứ hai không kém phần quan trọng, đặc biệt cho người có tín ngưỡng ở Việt Nam, là năm nay LHQ kỷ niệm 30 năm bản Tuyên Ngôn về Xóa Bỏ Mọi Hình Thức Bất Bao Dung và Kỳ Thị vì Lý Do Tôn Giáo và Tín Ngưỡng. Hơn ai hết trên đất nước này, người Phật Tử Việt Nam là nạn nhân trực tiếp của sự mất tự do tôn giáo và nhân quyền qua 36 năm đằng đẵng”.
Ngài cũng nhắc tới thông điệp của tổng thứ ký LHQ, Ban Ki-moon, gửi Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc lần thứ 8 tổ chức tại Thái Lan năm nay 2011 về: “Lời dậy của đức Phật chống tam độc, Tham, Sân, Si, có thể làm sống dậy những cuộc hội luận đa phương về nạn đói đang tác hại gần Một Tỷ người trong thế giới sung mãn của chúng ta, về nạn bạo lực hung ác đang giết hại hàng triệu người mỗi năm, và sự gây hại môi trường một cách vô nghĩa mà con người gây ra cho nơi cư trú của chúng ta là hành tinh trái đất. Nhiều tổ chức Phật Giáo đã đem giáo lý của đức Phật vào thực hành. Tôi vô cùng biết ơn các tổ chức Phật Giáo hậu thuẫn những hoạt động của LHQ để hoàn mãn các Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ, là kế hoạch của LHQ nhằm khắc phục các thách thức xã hội-kinh tế quan trọng mà thế giới phải đối diện”.
Vì con người thường xuyên chìm đắm trong ‘tam độc’ tham, sân ,si, nên đã tự làm khổ mình, khổ người, và hại đời, hư vật, gây ra không biết bao nhiêu thảm họa đầy máu và nước mắt cho nhân loại. Tham danh, tham lợi, tham quyền, là những mối tham trực tiếp quan hệ tới nhân quần xã hội. Diễn biến thành nạn độc tài, thảm cảnh khủng bố, và mọi hình thức bất bao dung, kỳ thị tôn giáo và tín ngưỡng, cũng như tai họa chiến tranh xâm lấn và huynh đệ tương tàn. Chính vì lòng tham muốn lấn vượt người khác, muốn lợi ta, hại người, muốn cầm đầu tập thể. Nên đã dùng đủ mọi thủ đoạn gian manh độc ác để tranh giành chiếm đoạt. Chiếm được thì phải tìm mọi cách để nắm giữ, rồi thường xuyên bị sống trong nghi ngờ thù hận và bị kẻ khác hận thù óan ghét. Danh, Lợi, Quyền là nguyên nhân biến tính thiện thành tính ác, làm cho con người say mê chìm đắm và tự ban cho mình độc quyền về những thứ mình đã đoạt được và muốn nắm giữ mãi cho hết kiếp mình, rồi truyền lại cho con cháu mình đời đời kiếp kiếp.
Nhưng con người thường quên đi là mình đang sống trong vũ trụ vô thường hằng hóa, mọi thứ rồi sẽ qua mau, như một kiếp người có sống là có chết, sự sống diễn hóa song hành với sự chết. Có được là có mất, có thắng là có bại. Tự mình vui vẻ buông bỏ là không bị mất. Tự mình thắng chính mình là không bị bại. Chính vì vậy mà Đạo Từ Bi Giải Thoát của đức Phật mới là chiếc phao cứu độ nhân sinh ra khỏi biển khổ tham, sân, si, để con người tự tìm lại chính mình, tự tin nơi mình, tin vào người, cùng dìu nhau bước lên Thời Đại Nhân Chủ Nhân Văn Toàn Cầu Hoá. Trong đó Con Người thực sự có quyền Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo. Mỗi Quốc Gia đều Dân Chủ Hóa để chủ động gia nhập tiến trình toàn cầu. Các tôn giáo chân chính không tranh đoạt và tham gia chính quyền, nhưng các giáo đồ đều phải thực hành nghĩa vụ chính trị công dân. Các tu sĩ có trách nhiệm nâng đỡ, hướng dẫn tâm linh con người để hướng thượng và giúp đỡ tha nhân Tất cả tạo lập một nếp sống Văn Hoá, một đời sống Đạo Đức, trong tình Thương Yêu Dân Tộc và Đồng Lọai, cũng như sống hòa hợp với Lẽ Tự Nhiên, và môi trường Thiên Nhiên.
Trong Thông Điệp Phật Đản, Hòa thượng Thích Quảng Độ viết tiếp: “Lý tưởng tôn giáo của đạo Phật là tiền đề cho lý tưởng công bình xã hội, biểu hiện qua văn hóa, kinh tế, chính trị. Không hề có những yếu tố phi xã hội trong giáo lý đạo Phật, vì thế người Phật tử luôn luôn tôn trọng và đương đầu bảo vệ con người, chống lại những bất công hay bất bình đẳng xã hội vốn là nguyên nhân chà đạp quyền sống của lương dân, ngăn cản hạnh nguyện tu học để tiến thủ, ngăn cản sự thực hành Từ, Bi, Trí, Lực, theo ý nguyện Bồ Tát cứu đời, ngăn cản tiến trình Giác Ngộ là cứu cánh của đạo Phật”. Từ nguyên tắc chỉ đạo cứu khổ ấy, Đạo Phật Việt Nam, lồng trong lịch sử dân tộc, trên hai ngàn năm qua, đã bao lần minh chứng rằng: Hộ Dân, Hộ Quốc. Hộ Pháp hoà quyện trong nhau làm kim chỉ nam cho nếp sống và hành động của người Phật tử Việt Nam. Ngôi nhà Việt Nam sau một trăm năm bị ngoại xâm chiếm đóng, sáu mươi lăm năm huynh đệ tương tàn, rồi độc tài toàn trị. Đã đến lúc người Phật tử không thể khoanh tay đứng ngó, hay than thân trách phận, chờ đợi kiếp sau, mà phải đứng lên noi gương Ngài A Dục từ bỏ con đường bạo lực, mở lượng từ bi, khai thông trí tuệ, nối tiếp Con Đường Phật 2555 năm trước”.
Về lời kêu gọi của Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đối với hàng ngũ Phật tử của Ngài, nên được nhân rộng ra thành lời kêu gọi toàn dân Việt Nam. Xin hãy noi gương dân chúng Bắc Phi và Trung Đông đứng lên tranh đấu, tiêu diệt các chế độ độc tài bạo trị, để xây dựng thể chế Dân Chủ Tự Do Công Bằng Công Lý cho toàn đân. Có như vậy mới tạo ra một môi trường lý tưởng cho con người tự do chủ động phát huy mọi khả năng sáng tạo, góp sức nâng mức sống tiêu thụ, nâng cao tay nghề sản xuất của toàn dân, thoát khỏi nạn độc tài, nạn khủng bố, và phá hoại sinh thái. Đấy là thánh địa đối với các nhà đầu tư. Tiền vốn và kỹ thuật quốc tế. Tay nghề giỏi và tiêu thụ cao của người dân. Chính quyền dân chủ trọng pháp minh bạch mở rộng đó là những yếu tố làm cho dân, nước giầu, mạnh, an ninh, bền vững. Còn thứ gọi là ‘ổn định’ trong chế độ độc đảng, độc tài, toàn trị kiểu Việtcộng chỉ là thứ ổn định giả tạo. Nhất là Việt Nam đang đứng trước âm mưu bành trướng của Trung Cộng và thế quyết tâm ngăn bành trướng của Hoakỳ thì sự ổn định đó đúng là “chỉ mành treo chuông” trước cơn giông bão. Có thể nói mà không sợ lầm: Nếu giờ đây, toàn dân Việt Nam đứng lên tự cứu mình, thì chắc chắn thế giới sẵn sàng trợ giúp, như họ đã từng giúp dân Bắc Phi và Trung Đông.
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Đạo Phật và chính trị
Đức Phật xuất thân từ giai cấp vương tướng, và do đó, Ngài có nhiều liên hệ với các vị quốc vương, hoàng tử, quan lại, trong triều đình. Mặc dù có nhiều liên hệ như thế, Ngài không bao gìơ dùng các thế lực chính trị để truyền đạo, và Ngài cũng không bao giờ cho phép giáo pháp của Ngài bị lợi dụng cho các ý đồ chính trị.
Tăng sĩ Miến Điện biểu tình phản đối chế độ Quân phiệt
Căn bản của tôn giáo là đạo đức, lòng trong sạch, và đức tin; trong khi đó, căn bản của chính trị là quyền lực. Trong tiến trình lịch sử, tôn giáo thường bị lạm dụng để biện minh cho chiến tranh và thôn tính, đàn áp, chém giết, tàn bạo, nổi loạn, tàn phá các công trình văn hóa và nghệ thuật.
Mục đích của Phật pháp không phải nhắm đến việc thành lập các định chế và cơ cấu về chính trị mới. Trên cơ bản tôn giáo tìm cách giải quyết các vấn đề trong xã hội bằng cách giáo hóa mỗi cá nhân, vốn là thành viên của xã hội, và bằng cách đề nghị các nguyên tắc tổng quát để điều hướng xã hội tiến đến một phong thái nhân bản, cải thiện đời sống của mọi thành viên, và cổ động sự phân phối các nguồn vật lực một cách công bằng hơn.
Không một hệ thống chính trị nào, dù rằng có vẻ rất lý tưởng, có thể mang lại hạnh phúc và hòa bình, nếu người dân trong thể chế đó còn bị bao trùm bởi lòng tham, sân hận và mê si. Thêm vào đó, dù có theo một hệ thống chính trị nào đi nữa, cũng còn có những nhân tố phổ quát mà từng cá nhân trong xã hội phải trực diện: Kết quả của các nghiệp thiện và bất thiện của riêng mình, và sự khiếm khuyết và thiếu vắng của một nền an lạc trường cửu vì bản chất của thế gian vốn là hoạn khổ, vô thường, và vô ngã. Đối với những người con Phật, không một nơi nào trong cõi Ta bà này là có được một tự do, giải thoát thật sự, kể cả các cõi tiên của chư Thiên
Một hệ thống chính trị tốt và công bằng – có những bảo đảm cho các quyền căn bản của con người, và có những định chế giám sát và cân bằng việc sử dụng quyền lực – là điều kiện quan trọng cho cuộc sống hạnh phúc trong xã hội. Tuy nhiên, tự do tuyệt đối không thể nào có được trong các định chế chính trị, mà chỉ có được trong tâm thức khi nó được giải thoát. Để được giải thoát, chúng ta cần nhìn vào nội tâm của chính mình, và nổ lực giải phóng nó ra khỏi các gông xiềng của vô minh, hận thù và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đích thực tuyệt đối chỉ có được khi nào chúng ta dùng Chính Pháp để phát triển tâm lý qua lời nói và hành động hướng thiện, và để huân tập tâm ý, để phát triển tâm linh, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của giác ngộ.
Có nhiều khía cạnh qua các lời dạy của đức Phật có những tương quan với các bố cục chính trị ngày nay.
Thứ nhất, đức Phật đã giảng dạy về tính cách bình đẳng của con người cả mấy ngàn năm trước tuyên ngôn của Abraham Lincoln (Tổng thống Mỹ). Ngài dạy rằng các giai cấp, tầng lớp trong xã hội chỉ là những hàng rào nhân tạo do xã hội dựng ra. Việc sắp xếp thứ bậc của xã hội loài người, theo lời Ngài, chỉ có thể dựa trên phẩm chất giới hạnh của họ mà thôi.
Thứ hai, đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác bình đẳng và tiếp tục tham gia đóng góp trong xã hội. Đây là một tinh thần đã được cổ võ trong tiến trình chính trị của các xã hội hiện nay.
Thứ ba, Ngài đã không chỉ định một người nào để kế thừa Ngài. Ngài chỉ dạy rằng mọi người phải tự mình mà tu học, lấy Chính pháp làm nền tảng và làm nơi nương tựa. Các thành viên của Tăng đoàn chỉ chịu sự hướng dẫn của Giáo pháp và Giới luật như là một bộ luật sinh hoạt. Cho đến ngày nay, mỗi tu sĩ đều phải tuân thủ bộ Giới luật đó để làm kim chỉ nam hướng dẫn cho mọi sinh hoạt tu học của mình.
Thứ tư, đức Phật đã khuyến khích tinh thần tham vấn và tiến trình dân chủ. Điều này được thể hiện qua cộng đồng Tăng sĩ, trong đó mỗi thành viên đều có quyền quyết định về các vấn đề chung. Khi có một nghi vấn nghiêm trọng cần phải được giải quyết, các vấn đề có liên quan được đem ra giữa các tu sĩ để thảo luận trong một phương cách tương tự như trong hệ thống Quốc hội ngày nay. Tiên trình tự quản này có lẽ sẽ làm nhiều người ngạc nhiên vì nó đã được áp dụng trong các cộng đồng tăng sĩ Phật giáo tại Ấn Độ trong 2500 năm trước đây, và phương cách điều hành có rất nhiều điểm tương đồng với các thủ tục thảo luận trong Quốc hội.
Một tu sĩ, tương tự như vị “phát ngôn nhân “, được chỉ định để có tiếng nói chung, đại diện cho cộng đồng. Một tu sĩ khác, tương tự như vị “chủ tịch”, được bầu ra để điều hành diễn đàn. Các vấn đề được đưa ra như các nghị trình để được thảo luận công khai. Trong một vài trường hợp khi vấn đề có tính cách nghiêm trọng và phổ quát, thì nó có thể được đem ra thảo luận nhiều lần, tương tự như các vòng thảo luận của Quốc hội về các dự luật. Nếu qua các cuộc thảo luận mà còn nhiều ý kiến xung khắc, bất đồng thì vấn đề sẽ được biểu quyết qua một cuộc bỏ phiếu để lấy quyết định theo đa số. Đạo Phật khuyến khích nền tảng đạo đức và việc sử dụng quyền lực công cộng với ý thức trách nhiệm. Đức Phật tuyên giảng về hòa bình và bất bạo động như là một thông điệp phổ quát. Ngài không chấp nhận bạo lực và hủy hoại sinh mạng. Ngài dạy: “Người thắng tạo căm thù, kẻ thua sống khổ sở. Người nào từ bỏ thắng và bại thì người đó sống an vui và hạnh phúc”. Chẳng những đức Phật dạy về hòa bình và bất bạo động, có lẽ Ngài cũng là vị Đạo sự đầu tiên và duy nhất đã ra tận chiến trường để tìm cách ngăn chận chiến tranh. Nhài đã hóa giải xung đột giữa bộ tộc Sakya và bộ tộc Koliya khi họ muốn khởi sự đánh nhau vì tranh chấp nước sông Rohina. Ngài cũng đã thuyết phục vua Ajatasanu bỏ ý định tấn công vương quốc của bộ tộc Vaiji.
Đạo Phật đã giảng dạy về sự quan trọng và về các điều kiện thiết yếu của một chính phủ tốt, Ngài dạy rằng khi người lãnh đạo tham nhũng và bất công thì xứ sử trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dưạ trên các nguyên tắc nhân ái.
Ngài nói: “Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái”. (Tăng Chi bộ kinh)
Trong kinh Cakkavatti Sibananda (Chuyển Luân Thánh Vương sư tử Hống, Trường Bộ kinh), đức Phật nói rằng các điều hung các và tội phạm, như ăn cắp, lường gạt, bạo lực, thù ghét, bạo tàn… đều bắt nguồn từ sự nghèo khó. Quốc vương và triều đình có thể sử dụng sự trừng phạt để kiềm chế tội phạm, nhưng không bao giờ có thể tiêu trừ các tội phạm bằng quyền lực của mình.
Trong kinh Kutadanta (Trường Bộ kinh), đức Phật chủ trương phát triển kinh tế, thay vì dùng quyền lực, để xóa giảm tội phạm. Triều đình phải biết sử dụng các nguồn tài nguyên để cải thiện điều kiện kinh tế trong nước. Họ phải biết phát triển nông nghiệp và thôn quê, trợ giúp giới buôn bán, cung cấp lương bổng đầy đủ cho công nhân để đảm bảo một đời sống tốt có nhân phẩm.
Trong kinh Bổn sanh (Jakata) đức Phật có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọi là “Thập Vương Pháp” (Dasa Raja Dhamma). Mười nguyên tắc này vẫn có thể áp dụng trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị xứ sở một cách hài hòa. Đó là:
1. Phải cởi mở và không ích kỷ,
2. Duy trì đạo đức cao,
3. Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ an sinh của dân chúng,
4. Phải thành thật và ngay thẳng,
5. Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái,
6. Phải sống giản dị để làm gương cho dân chúng,
7. Phải vượt lên trên mọi hận thù,
8. Biết áp dụng tinh thần bất bạo động,
9. Biết nhẫn nại,
10. Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp.
Về cách hành xử của người lãnh đạo thì người giảng thêm (Kinh Cakkavatti Sihanada):
a. Người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công bình, không thiên vị bất cứ nhóm nào,
b. Người lãnh đạo tốt không bao giờ gieo lòng thù hận trong dân chúng,
c. Người lãnh đạo tốt không bao giờ ngần ngại áp dụng luật pháp khi cần thiết,
d. Người lãnh đạo tốt phải thông hiểu luật pháp rõ ràng mỗi khi áp dụng. Luật pháp không phải chỉ áp dụng vì người ấy có uy quyền, mà phải được áp dụng hợp tình hợp lý.
Bộ Mi Tiên Vấn Đáp (Milanda Panha) có viết: “Nếu người nào không có tài năng, không đạo đức không phạm hạnh, không xứng đáng là vua, mà lại tự mình tôn xưng là vua hay người lãnh đạo với nhiều quyền lực thì người ấy bị nguyền rủa và trừng phạt bởi dân chúng, bởi vì người ấy, vì không xứng đáng và không tài năng, đã tự đặt mình một cách vô lý vào vị trí của người lãnh đạo. Người lãnh đạo cũng như những người đã vi phạm những nguên tắc đạo đức và giớ luật căn bàn của xã hội loài người, sẽ bị trừng phạt như bao nhiêu người khác, nhất là đối với những người lãnh đạo ăn cắp tài sản của dân chúng”. Kinh Bổn Sanh cũng có đề cập đến người lãnh đạo nào mà chỉ trừng phạt người vô tội và không trừng phạt người phạm tội thì người lãnh đạo ấy không xứng đáng lãnh đạo xứ sở.
Vì vậy, Trung Bộ kinh cũng có nói về vị quốc vương biết tự thăng tiến và lúc nào cũng nổ lực gìn giữ hành động, lời nói và tâm ý, lúc nào cũng biết lắng nghe ý kiến của dân chúng về sự cai trị của mình, để biết mình có phạm lỗi lầm nào không trong khi điều hành đất nước. Nếu vị quốc vương ấy cai trị xấu, người dân sẽ than phiền rằng họ đang bị phá hoại bởi một vị lãnh đạo xấu vì các chính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao thuế nặng, và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị vua ấy. Ngược lại nếu vị vua cai trị tốt thì dân chúng sẽ chúc tụng: “Cầu xin cho quốc vương của chúng tôi được trường thọ”.
Lời dạy của đức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân đã giúp cho vua A Dục (Asoka) vào thế kỷ 3 TCN, cai trị đất nước của ông. Hoàng đế A Dục, là một thí dụ điển hình về nguyên tắc đạo đức này, đã sống và thực hành Chính Pháp cho tất cả mọi người dân trong triều đại của ông. Ông quảng bá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thịên ý của ông, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động. Ông cổ võ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ không hoang phí, không chiếm đoạt và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến khích tự do tôn giáo và bình đẳng tương kính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảng Đạo pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây gây rừng, đào giếng các công trình thủy lợi, và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật.
Có người cho rằng đức Phật là một nhà cải cách xã hội. Trong các bài giảng, Ngài đã lên án hệ thống giai cấp và Ngài công nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài giảng về nhu cầu cải thiện về các điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc phân bố công bằng các của cải giữa ngừơi giàu và người nghèo, nâng cao vị trí của phụ nữ, khuyến khích việc áp dụng tinh thần nhân bản trong guồng máy hành chính. Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên tình thương và lòng từ bi, chứ không dựa vào lòng tham lam. Hơn thế nữa, sự đóng góp của Ngài cho nhân loại còn cao quý hơn, vì Ngài còn đi xa hơn các nhà cải cách xã hội thời đó, vì không ai có thể chỉ thẳng vào cốt lỗi của các cơn bệnh trong tâm thức con người. Chỉ ở trong tâm thức thì sự cải cách mới thật sự có ý nghĩa. Các cải cách bên ngoài do các quyền lực áp đặt thì chỉ có hiệu quả ngắn hạn vì nó không có cội rễ. Chỉ có cải cách nào dựa trên căn bản cải thiện tâm thức thì nó mới có cội rễ vững chắc. Có cội rễ vững chắc thì các cành nhánh của cải cách xã hội mới được phát triển tươi tốt, vì chúng được nuôi dưỡng bởi nguồn sinh lực liên tục, đó là nguồn tâm lực của dòng sinh hóa trong cuộc đời. Như thế các cải cách xã hội chỉ có thể khả thi khi nào mà tâm ý của con người đã được sửa soạn sẵn sàng cho các việc đó. Các cải cách đó sẽ tiếp tục sống mạnh khi nào mà con người sẵn sàng nuôi dưỡng chúng qua sự chuyên cần và tôn trọng sự thật và công lý, và tôn trọng đời sống của đồng bào của họ.
Giáo thuyết của đức Phật không dựa trên một “Triết lý Chính trị” nào cả. Giáo thuyết này không khuyến khích con người đi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo thuyết này vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu, là Niết bàn. Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của một Giáo thuyết ấy là đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con người trong vòng trầm luân, khổ ải. Một câu thơ trong kinh Pháp Cú (câu 75) đã tóm tắt điều này: “Con đường đưa đến thủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường đưa đến Niết bàn là một con đường khác.
Điều này không có nghĩa là các Phật tử không nên tham gia vào tiến trình chính trị, vốn là một thực tại xã hội. Đời sống của mọi người trong xã hội được uốn nắn bởi luật pháp và các quy định, bởi các bố trí kinh tế của quốc gia, bởi guồng máy quản trị hành chính, và như thế chịu ảnh hưởng của các bố cục chính trị của quốc gia đó. Tuy nhiên, nếu người cư sĩ Phật tử có muốn tham gia chính trị thì người đó không nên lạm dụng tôn giáo để mưu đồ tạo các quyền lực chính trị cho mình.
Tóm lại, đức Phật là bậc Giác Ngộ, vượt lên trên mọi vấn đề của thế gian. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời hoằng dương Chính pháp, Ngài luôn luôn có những lời dạy quý báu cho các quốc vương và triều đình để quản trị tốt xứ sở của họ.
K.S Dhammananda
Thảo Hiền Sucitto lược dịch
Politics http://www.buddhanet.net/budsas/ebud...believ/229.htm trong quyển sách “What Buddhist Believa” của Hòa thượng Dhammananda, trang 229-236, Hội Buddha Educational Foundation ấn tống)
Mục đích của Phật pháp không phải nhắm đến việc thành lập các định chế và cơ cấu về chính trị mới. Trên cơ bản tôn giáo tìm cách giải quyết các vấn đề trong xã hội bằng cách giáo hóa mỗi cá nhân, vốn là thành viên của xã hội, và bằng cách đề nghị các nguyên tắc tổng quát để điều hướng xã hội tiến đến một phong thái nhân bản, cải thiện đời sống của mọi thành viên, và cổ động sự phân phối các nguồn vật lực một cách công bằng hơn.
Không một hệ thống chính trị nào, dù rằng có vẻ rất lý tưởng, có thể mang lại hạnh phúc và hòa bình, nếu người dân trong thể chế đó còn bị bao trùm bởi lòng tham, sân hận và mê si. Thêm vào đó, dù có theo một hệ thống chính trị nào đi nữa, cũng còn có những nhân tố phổ quát mà từng cá nhân trong xã hội phải trực diện: Kết quả của các nghiệp thiện và bất thiện của riêng mình, và sự khiếm khuyết và thiếu vắng của một nền an lạc trường cửu vì bản chất của thế gian vốn là hoạn khổ, vô thường, và vô ngã. Đối với những người con Phật, không một nơi nào trong cõi Ta bà này là có được một tự do, giải thoát thật sự, kể cả các cõi tiên của chư Thiên
Một hệ thống chính trị tốt và công bằng – có những bảo đảm cho các quyền căn bản của con người, và có những định chế giám sát và cân bằng việc sử dụng quyền lực – là điều kiện quan trọng cho cuộc sống hạnh phúc trong xã hội. Tuy nhiên, tự do tuyệt đối không thể nào có được trong các định chế chính trị, mà chỉ có được trong tâm thức khi nó được giải thoát. Để được giải thoát, chúng ta cần nhìn vào nội tâm của chính mình, và nổ lực giải phóng nó ra khỏi các gông xiềng của vô minh, hận thù và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đích thực tuyệt đối chỉ có được khi nào chúng ta dùng Chính Pháp để phát triển tâm lý qua lời nói và hành động hướng thiện, và để huân tập tâm ý, để phát triển tâm linh, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của giác ngộ.
Có nhiều khía cạnh qua các lời dạy của đức Phật có những tương quan với các bố cục chính trị ngày nay.
Thứ nhất, đức Phật đã giảng dạy về tính cách bình đẳng của con người cả mấy ngàn năm trước tuyên ngôn của Abraham Lincoln (Tổng thống Mỹ). Ngài dạy rằng các giai cấp, tầng lớp trong xã hội chỉ là những hàng rào nhân tạo do xã hội dựng ra. Việc sắp xếp thứ bậc của xã hội loài người, theo lời Ngài, chỉ có thể dựa trên phẩm chất giới hạnh của họ mà thôi.
Thứ hai, đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác bình đẳng và tiếp tục tham gia đóng góp trong xã hội. Đây là một tinh thần đã được cổ võ trong tiến trình chính trị của các xã hội hiện nay.
Thứ ba, Ngài đã không chỉ định một người nào để kế thừa Ngài. Ngài chỉ dạy rằng mọi người phải tự mình mà tu học, lấy Chính pháp làm nền tảng và làm nơi nương tựa. Các thành viên của Tăng đoàn chỉ chịu sự hướng dẫn của Giáo pháp và Giới luật như là một bộ luật sinh hoạt. Cho đến ngày nay, mỗi tu sĩ đều phải tuân thủ bộ Giới luật đó để làm kim chỉ nam hướng dẫn cho mọi sinh hoạt tu học của mình.
Thứ tư, đức Phật đã khuyến khích tinh thần tham vấn và tiến trình dân chủ. Điều này được thể hiện qua cộng đồng Tăng sĩ, trong đó mỗi thành viên đều có quyền quyết định về các vấn đề chung. Khi có một nghi vấn nghiêm trọng cần phải được giải quyết, các vấn đề có liên quan được đem ra giữa các tu sĩ để thảo luận trong một phương cách tương tự như trong hệ thống Quốc hội ngày nay. Tiên trình tự quản này có lẽ sẽ làm nhiều người ngạc nhiên vì nó đã được áp dụng trong các cộng đồng tăng sĩ Phật giáo tại Ấn Độ trong 2500 năm trước đây, và phương cách điều hành có rất nhiều điểm tương đồng với các thủ tục thảo luận trong Quốc hội.
Một tu sĩ, tương tự như vị “phát ngôn nhân “, được chỉ định để có tiếng nói chung, đại diện cho cộng đồng. Một tu sĩ khác, tương tự như vị “chủ tịch”, được bầu ra để điều hành diễn đàn. Các vấn đề được đưa ra như các nghị trình để được thảo luận công khai. Trong một vài trường hợp khi vấn đề có tính cách nghiêm trọng và phổ quát, thì nó có thể được đem ra thảo luận nhiều lần, tương tự như các vòng thảo luận của Quốc hội về các dự luật. Nếu qua các cuộc thảo luận mà còn nhiều ý kiến xung khắc, bất đồng thì vấn đề sẽ được biểu quyết qua một cuộc bỏ phiếu để lấy quyết định theo đa số. Đạo Phật khuyến khích nền tảng đạo đức và việc sử dụng quyền lực công cộng với ý thức trách nhiệm. Đức Phật tuyên giảng về hòa bình và bất bạo động như là một thông điệp phổ quát. Ngài không chấp nhận bạo lực và hủy hoại sinh mạng. Ngài dạy: “Người thắng tạo căm thù, kẻ thua sống khổ sở. Người nào từ bỏ thắng và bại thì người đó sống an vui và hạnh phúc”. Chẳng những đức Phật dạy về hòa bình và bất bạo động, có lẽ Ngài cũng là vị Đạo sự đầu tiên và duy nhất đã ra tận chiến trường để tìm cách ngăn chận chiến tranh. Nhài đã hóa giải xung đột giữa bộ tộc Sakya và bộ tộc Koliya khi họ muốn khởi sự đánh nhau vì tranh chấp nước sông Rohina. Ngài cũng đã thuyết phục vua Ajatasanu bỏ ý định tấn công vương quốc của bộ tộc Vaiji.
Đạo Phật đã giảng dạy về sự quan trọng và về các điều kiện thiết yếu của một chính phủ tốt, Ngài dạy rằng khi người lãnh đạo tham nhũng và bất công thì xứ sử trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dưạ trên các nguyên tắc nhân ái.
Ngài nói: “Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái”. (Tăng Chi bộ kinh)
Trong kinh Cakkavatti Sibananda (Chuyển Luân Thánh Vương sư tử Hống, Trường Bộ kinh), đức Phật nói rằng các điều hung các và tội phạm, như ăn cắp, lường gạt, bạo lực, thù ghét, bạo tàn… đều bắt nguồn từ sự nghèo khó. Quốc vương và triều đình có thể sử dụng sự trừng phạt để kiềm chế tội phạm, nhưng không bao giờ có thể tiêu trừ các tội phạm bằng quyền lực của mình.
Trong kinh Kutadanta (Trường Bộ kinh), đức Phật chủ trương phát triển kinh tế, thay vì dùng quyền lực, để xóa giảm tội phạm. Triều đình phải biết sử dụng các nguồn tài nguyên để cải thiện điều kiện kinh tế trong nước. Họ phải biết phát triển nông nghiệp và thôn quê, trợ giúp giới buôn bán, cung cấp lương bổng đầy đủ cho công nhân để đảm bảo một đời sống tốt có nhân phẩm.
Trong kinh Bổn sanh (Jakata) đức Phật có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọi là “Thập Vương Pháp” (Dasa Raja Dhamma). Mười nguyên tắc này vẫn có thể áp dụng trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị xứ sở một cách hài hòa. Đó là:
1. Phải cởi mở và không ích kỷ,
2. Duy trì đạo đức cao,
3. Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ an sinh của dân chúng,
4. Phải thành thật và ngay thẳng,
5. Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái,
6. Phải sống giản dị để làm gương cho dân chúng,
7. Phải vượt lên trên mọi hận thù,
8. Biết áp dụng tinh thần bất bạo động,
9. Biết nhẫn nại,
10. Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp.
Về cách hành xử của người lãnh đạo thì người giảng thêm (Kinh Cakkavatti Sihanada):
a. Người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công bình, không thiên vị bất cứ nhóm nào,
b. Người lãnh đạo tốt không bao giờ gieo lòng thù hận trong dân chúng,
c. Người lãnh đạo tốt không bao giờ ngần ngại áp dụng luật pháp khi cần thiết,
d. Người lãnh đạo tốt phải thông hiểu luật pháp rõ ràng mỗi khi áp dụng. Luật pháp không phải chỉ áp dụng vì người ấy có uy quyền, mà phải được áp dụng hợp tình hợp lý.
Bộ Mi Tiên Vấn Đáp (Milanda Panha) có viết: “Nếu người nào không có tài năng, không đạo đức không phạm hạnh, không xứng đáng là vua, mà lại tự mình tôn xưng là vua hay người lãnh đạo với nhiều quyền lực thì người ấy bị nguyền rủa và trừng phạt bởi dân chúng, bởi vì người ấy, vì không xứng đáng và không tài năng, đã tự đặt mình một cách vô lý vào vị trí của người lãnh đạo. Người lãnh đạo cũng như những người đã vi phạm những nguên tắc đạo đức và giớ luật căn bàn của xã hội loài người, sẽ bị trừng phạt như bao nhiêu người khác, nhất là đối với những người lãnh đạo ăn cắp tài sản của dân chúng”. Kinh Bổn Sanh cũng có đề cập đến người lãnh đạo nào mà chỉ trừng phạt người vô tội và không trừng phạt người phạm tội thì người lãnh đạo ấy không xứng đáng lãnh đạo xứ sở.
Vì vậy, Trung Bộ kinh cũng có nói về vị quốc vương biết tự thăng tiến và lúc nào cũng nổ lực gìn giữ hành động, lời nói và tâm ý, lúc nào cũng biết lắng nghe ý kiến của dân chúng về sự cai trị của mình, để biết mình có phạm lỗi lầm nào không trong khi điều hành đất nước. Nếu vị quốc vương ấy cai trị xấu, người dân sẽ than phiền rằng họ đang bị phá hoại bởi một vị lãnh đạo xấu vì các chính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao thuế nặng, và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị vua ấy. Ngược lại nếu vị vua cai trị tốt thì dân chúng sẽ chúc tụng: “Cầu xin cho quốc vương của chúng tôi được trường thọ”.
Lời dạy của đức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân đã giúp cho vua A Dục (Asoka) vào thế kỷ 3 TCN, cai trị đất nước của ông. Hoàng đế A Dục, là một thí dụ điển hình về nguyên tắc đạo đức này, đã sống và thực hành Chính Pháp cho tất cả mọi người dân trong triều đại của ông. Ông quảng bá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thịên ý của ông, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động. Ông cổ võ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ không hoang phí, không chiếm đoạt và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến khích tự do tôn giáo và bình đẳng tương kính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảng Đạo pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây gây rừng, đào giếng các công trình thủy lợi, và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật.
Có người cho rằng đức Phật là một nhà cải cách xã hội. Trong các bài giảng, Ngài đã lên án hệ thống giai cấp và Ngài công nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài giảng về nhu cầu cải thiện về các điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc phân bố công bằng các của cải giữa ngừơi giàu và người nghèo, nâng cao vị trí của phụ nữ, khuyến khích việc áp dụng tinh thần nhân bản trong guồng máy hành chính. Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên tình thương và lòng từ bi, chứ không dựa vào lòng tham lam. Hơn thế nữa, sự đóng góp của Ngài cho nhân loại còn cao quý hơn, vì Ngài còn đi xa hơn các nhà cải cách xã hội thời đó, vì không ai có thể chỉ thẳng vào cốt lỗi của các cơn bệnh trong tâm thức con người. Chỉ ở trong tâm thức thì sự cải cách mới thật sự có ý nghĩa. Các cải cách bên ngoài do các quyền lực áp đặt thì chỉ có hiệu quả ngắn hạn vì nó không có cội rễ. Chỉ có cải cách nào dựa trên căn bản cải thiện tâm thức thì nó mới có cội rễ vững chắc. Có cội rễ vững chắc thì các cành nhánh của cải cách xã hội mới được phát triển tươi tốt, vì chúng được nuôi dưỡng bởi nguồn sinh lực liên tục, đó là nguồn tâm lực của dòng sinh hóa trong cuộc đời. Như thế các cải cách xã hội chỉ có thể khả thi khi nào mà tâm ý của con người đã được sửa soạn sẵn sàng cho các việc đó. Các cải cách đó sẽ tiếp tục sống mạnh khi nào mà con người sẵn sàng nuôi dưỡng chúng qua sự chuyên cần và tôn trọng sự thật và công lý, và tôn trọng đời sống của đồng bào của họ.
Giáo thuyết của đức Phật không dựa trên một “Triết lý Chính trị” nào cả. Giáo thuyết này không khuyến khích con người đi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo thuyết này vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu, là Niết bàn. Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của một Giáo thuyết ấy là đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con người trong vòng trầm luân, khổ ải. Một câu thơ trong kinh Pháp Cú (câu 75) đã tóm tắt điều này: “Con đường đưa đến thủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường đưa đến Niết bàn là một con đường khác.
Điều này không có nghĩa là các Phật tử không nên tham gia vào tiến trình chính trị, vốn là một thực tại xã hội. Đời sống của mọi người trong xã hội được uốn nắn bởi luật pháp và các quy định, bởi các bố trí kinh tế của quốc gia, bởi guồng máy quản trị hành chính, và như thế chịu ảnh hưởng của các bố cục chính trị của quốc gia đó. Tuy nhiên, nếu người cư sĩ Phật tử có muốn tham gia chính trị thì người đó không nên lạm dụng tôn giáo để mưu đồ tạo các quyền lực chính trị cho mình.
Tóm lại, đức Phật là bậc Giác Ngộ, vượt lên trên mọi vấn đề của thế gian. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời hoằng dương Chính pháp, Ngài luôn luôn có những lời dạy quý báu cho các quốc vương và triều đình để quản trị tốt xứ sở của họ.
K.S Dhammananda
Thảo Hiền Sucitto lược dịch
Politics http://www.buddhanet.net/budsas/ebud...believ/229.htm trong quyển sách “What Buddhist Believa” của Hòa thượng Dhammananda, trang 229-236, Hội Buddha Educational Foundation ấn tống)
Blog mới của Thanh Niên Phật Giáo nội dung rất phong phú hữu ích . Cám ơn bạn , cố gắng phát huy , mình sẻ vào ủng hộ thường cho bạn nha .
ReplyDeleteNgày nay, đất nước lâm nguy, đạo pháp chao đảo bị chia thống trị bởi mặt trận tổ quốc ( PGVN quốc doanh ) , hình ảnh Lịệt vị Tổ Sư khiến cho người Phật tử không thể nào nhắm mắt xuôi tay cho số phận an bài... Củng may mắn cho đạo pháp còn có giáo hội Phật giáo thuần túy không bị khống chế bởi mặt trận tổ quốc ( PGVNTN ) do đức Cố Tăng thống Thích Huyền Quang và đại lảo Hòa thượng Thích Quảng Độ lèo lái bảo tồn , chấn hưng phật giáo thuần túy . Tất cả chúng ta ACE Phật tử thanh niên phải nghĩ đến nên làm gì, đóng góp gì trước tình thế an nguy của Đạo Pháp và Dân tộc !!!
ReplyDeleteMong lắm ....nếu được mọi người chúng ta cùng góp lực cùng quý Thầy Vì chỉ có... ánh sáng ... mới đẩy lùi được ...bóng tối... bởi sự thật là con đường dẫn tới "Công Lý" . Chúng ta cùng nhau lôi CS ra ánh sáng và cùng nhau đem thông tin, sự thật cho càng nhiều người biết càng tốt.
ReplyDeletePhật giáo ở miền Trung gồm Huế và Đà Nẵng xuống đường biểu tình năm 1993 rất dữ dội. Các Sư hô hào,và cùng với Phật tử thấy khí thế cao trào rất cao , vậy mà ở Sài Gòn lúc đó đâu ai hay biết gì đâu , kể cả Phật tử củng không hay không biết mà các Sư củng không nghe nói , giờ coi video clip mới được rỏ ràng . Nếu thời điểm hiện nay mà có một cuộc xuống đường do Sư hô hào thì sẻ như vũ bảo khí thê không thua vào thời điểm năm 1993 đâu , với giờ công an củng khó lòng bưng bít thông tin như năm 1993 . Con hy vọng , con ước mong sẻ có xuống đường biểu tình do chính Phật Giáo chúng ta đi tiên phong lấy đạo từ bi trị bọn thủ ác thì mới mong cầu đất nước mình trở lại thời cường thịnh Hòn Ngọc Viển Đông .A Di đà Phật .
ReplyDeleteBravo ! Hoan hô ! Tất cả anh chị em Thanh Niên PG !
ReplyDeleteĐả đảo Tàu cộng xâm lăng, đả đảo đcsVN bán nước. Ngày tàn của Cô Hồn bán nước hại dân gần cáo chung . Đả đảo ! Đả đảo !
Người Phật Tử Việt Nam trải dài từ ngàn năm nay mọi thời đại luôn luôn đồng hành với sự sống còn của Dân Tộc giòng bách Việt
ReplyDeleteLời kêu gọi của Thầy Quảng Độ với toàn thể phật tử VN là đã đến lúc không thể khoanh tay đứng nhìn..thật đầy đủ ý nghĩa cho những ai là phật tử... Hộ Pháp, Hộ quốc hay an phận mà quên thế sự!!!
ReplyDeleteThế đứng của Việt Cộng hôm nay là một thế đứng mê muội hay là thế đứng trót đã nhúng chàm, chỉ còn cách quất thẳng roi dân tộc vào mặt chúng, một là chúng ăn năn hối cãi mà trở về, hai là chúng phải gặt quả báo để dân tộc được sống và đạo pháp được sinh tồn .
ReplyDeleteĐúng như lời ngài đã nói; không có gì khác hơn cho những kẻ đang cầm quyền ở VN phải tự tịnh tâm suy xét xem mình còn có tí gì là bản chất dân tộc VN hào hùng, thương dân, yêu nước như Lê, Lý , Trần ....hay không?
ReplyDeleteXin hãy dừng lại đừng làm tay sai nữa, cho dù bên nào, thôi thời gian làm tay sai cũng đủ lắm rồi!
Hãy quay về đi, những người dân Việt, Quốc tổ Việt luôn luôn đại xả từ bi, như những người con Phật đang hành theo mỗi ngày...!!!!
ĐẠI HÙNG -ĐẠI LỰC- ĐẠI BI
ReplyDeleteDÂN TỘC HƯNG- ĐẠO PHÁP THỊNH -DÂN TỘC VONG -ĐẠO PHÁP SUY
Phật giáo chính thống và đông nhất tại Việt Nam là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, từ khi đại họa vào ngày 30 tháng 04 năm 1975 cho đến ngày nay vẫn bị ngăn cấm thực hành tôn giáo . Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý thường vụ Viện tăng thống, kiêm Viện trưởng Viện hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn bị quản thúc tại Thanh Minh thiền viện, Phú Nhuận, Sài Gòn.
ReplyDeleteQuyết tâm phá xích, phá xiềng !
Lật đổ bọn Cộng sản tà quyền !
Sống theo đúng Chánh Pháp !
Xứng danh Phật giáo Việt Nam Thống nhất !
Một dân tộc bị tê liệt thần kinh bởi cái đảng hồ ly quái thai gây ra , với cái đà này mà không trị dứt thãm nạn thì dân Tộc có nguy cơ tàu cộng nuốt chắc luôn .
ReplyDeleteÔi ôi đất nước của tôi ơi ,bây giờ TAN HOANG hết cả rồi , có còn gì nữa đâu , tài nguyên KHOÁNG SẢN chỗ nào cũng đào bới . Đất nước này Tôn giáo bị chi phối bởi lủ tà ác làm giá trị - đạo đức con ngườì BĂNG HOẠI ,những tấm lòng hành đạo đúng với đường lối của đức Thế Tôn , yêu nước đang bị đàn áp, tù đày trên quê hương của mình.
ReplyDeleteHy vọng rằng ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM còn tín Ngừoi.... Vâng ... hy vọng là thế ... hãy tĩnh tâm mà nhìn lại vẫn còn kịp, kẻo sau này hối hận cũng đã muộn.
ReplyDeleteCha ông ta thường nói : "Thiện hữu thiện báo, Ác hữu ác báo". Việt cộng ngụy quyền sớm muộn sẽ không tránh khỏi Quả báo.
ReplyDeleteNội dung bài viết rất hay . Cám ơn bạn đả share cho mộ người đọc và cùng suy ngẫm .
ReplyDeleteĐất nước Việt Nam của chúng ta, Tổ quốc của chúng ta, nhân dân VN của chúng ta và tương lai của dân tộc Việt Nam ta, chúng ta phải tự lo chứ! Dù cho chúng ta ở tôn giáo nào củng vậy , phải đứng lên , trước bảo vệ cá nhân mình , kế đến bảo vệ đạo và đất nước . Nếu chúng ta rụt rè sợ hãi thì tạm thời cứ thế này và tương lai là vực thẳm.
ReplyDeleteBài viết hay ! Những tên lãnh đạo đảng cướp CS vô cùng tiểu nhân, hèn hạ.
ReplyDeleteCộng sản thường làm ngược những gì họ nói và là hình ảnh tiêu biểu cho kẻ tiểu nhân hẹp hòi. Đừng cầu xin điều gì cả đối với người cộng sản , điều đó vô ích mà thôi . Muốn cộng sản làm theo tuân thủ theo lòng dân thì chỉ có thể khi lực của dân có thể làm cho cộng sản khiếp sợ . Lấy thủ đoạn của nó đập lại nó '' gậy ông đập lưng ông '' nó dùng bạo lực khống chế dân , giờ ta phải dùng vủ lực '' từ việc nhỏ cho tới việc lớn '' thì ngày tàn cộng sản đến sớm lắm . Cứ ngó về những diển biến ở những đất nước Trung Đông hiện giờ rất thích hợp để chúng ta cùng nắm bắt mà khai triển tại Việt Nam .. Nào cùng hành động !
ReplyDeleteNgày xưa Cách mạng ĐẸP nhưng không mạnh;
ReplyDeleteNgày nay Cách mạng Mạnh nhưng không còn đẹp nữa.
Cách mạng bây giờ ÁC QUÁ các bạn ạ.
Một chính sách Cai trị độc Tài , bịp bợm , mỵ Dân , nguỵ quân tử ,bán nước chắc chắn sẽ KHÔNG tồn tại lâu dài
ReplyDeleteĐCSVN chắc chắn phải thay đổi , CHXHCNVN phải thay đổi . Một xã hội VN tươi sáng Tự do , Dân chủ hơn chắc chắn phải có . Chúng ta sẽ thành Công ......
ReplyDeleteCảm ơn đảng và nhà nước cộng sản đã và đang làm những việc ngu xuẩn như vào phá rối nhà chùa , thánh thất , nhà thờ , đàn áp bịt miệng giam cầm quản chế những vị lảnh đạo các tôn giáo không khuất phục đứng vào hàng ngủ quốc doanh làm tay sai cho đảng . Cảm ơn đảng và nhà nước cộng sản đã giúp cho dân Việt ngày càng thấy rõ bản chất lưu manh, phản động của cộng sản. Như vậy ngày tàn của Bạo chúa cộng sản rất rất gần đến. Thanks a lot, Communist Party.
ReplyDeleteSao mà thấy tởm cho cái chế độ này quá, tởm cho tầng lớp lãnh đạo VN quá.
ReplyDeleteVô vàn điều ngang trái đang diễn ra sờ sờ trước mắt họ, vậy mà sao họ chỉ biết cố thủ trong cái cung Ba đình mà không giám đối diện?
Bất mãn và chán ghét chế độ là tình cảm đang lan rộng và phổ biến đối với người dân. Giông bão sẽ bắt đầu từ đó
Nhân dân cần tự do, trí thức Sinh viên... hãy đoàn kết lại.... xuống đường đòi công lý cho người dân oan. Đất nước ta có hình chữ S, mà TMH thấy như là hình ánh sét đanh ngang trời... vậy thì phải làm sao cho tiếng sét đó đánh vào bè lũ bạo quyền đây??? Xuống đường thôi
ReplyDeleteToàn dân hãy cùng nhau xuống đường,Biểu Tình Lật đổ bọn khốn nạn này thôi.Chịu hết nổi rồi...
ReplyDeleteNhân dân Việt Nam muốn có Tự Do - Dân Chủ - Nhân Quyền thực sự thì Không thể VAN XIN hay chờ đợi bọn độc tài, bạo quyển Việt gian bán nước, đảng Cộng sản này ban cho mà phải đồng loạt vùng lên, nổi dậy quyét sạch bọn tội đồ mới cứu được chính mình, gia đình, bạn bè, thân hữu cùng đồng bào cả nước và giành lại độc lập, ấm no, hạnh phúc, công lý, phát triển bền vững cho đất nước... Cuộc đấu tranh giành Tự Do - Dân Chủ ở bất cứ nơi nào cũng phải biết chia sẻ và hy sinh...
ReplyDeleteViệt Nam còn chế độ độc tài Cộng sản cai trị sẽ mất TẤT CẢ
Việt Nam có Tự Do - Dân Chủ sẽ có TẤT CẢ