Mùa Thanksgiving
T rong tuần lễ tạ ơn
H ồn vang câu sám hối
A 'ng mây Tần vòi vọi
N uớc non trời quê huơng
K inh nguyện xin NGUỜI thuơng
S ao cho vơi thống khổ
G aọ cơm ngày áo ấm
I n dấu cuời thênh thang
V ề đâu ba muơi năm
I như sầu vạn cổ
N gày xin thôi thống khổ
G ivings trời phuơng Nam ...
T rong tuần lễ tạ ơn
H ồn vang câu sám hối
A 'ng mây Tần vòi vọi
N uớc non trời quê huơng
K inh nguyện xin NGUỜI thuơng
S ao cho vơi thống khổ
G aọ cơm ngày áo ấm
I n dấu cuời thênh thang
V ề đâu ba muơi năm
I như sầu vạn cổ
N gày xin thôi thống khổ
G ivings trời phuơng Nam ...
Chương Khuê - Ở đây vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, hằng năm cứ mỗi độ bất chợt nhìn mấy cây phong chỉ còn lác đác những chiếc lá vàng cuối cùng, tôi lại liên tưởng đến những chú gà tây trần truồng nằm đè lên nhau nơi quầy thịt trong siêu thị.
Mới ngày nào tay xách tay ôm, ngố ngáo vợ yếu con thơ chạy nạn, sa được vào lòng bao dung của những người không phải là đồng bào, của đất nước chẳng phải là tổ quốc mình, nay dã mười lăm mùa lá vàng rơi, mười lăm Mùa Lễ Tạ Ơn.
"Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình". Xin trộm phép cụ Nguyễn Du sửa lại chút lời cô em gái nàng Kiều thuở trước, mười lăm năm ấy biết bao ân tình, gia đình tôi nhận được.
Như trận mưa rào, làm sao tôi đếm đủ từng hạt mưa rơi xuống khắp thân châu trong cơn nóng khát lã người. Từ gia đình ông bà bảo trợ:;những người đến trước; những viên chức sở Xã Hội; Y Tế; nhà thờ; thầy cô giáo dạy ESL và những lớp học khác sau này; những cô cậu sinh viên Mỹ đồng môn; những người trên đường phố , trên xe bus, trong cửa chợ, nơi công sở, bệnh viện , hãng xưởng.v.v..
Một trong những hạt mưa ân tình đậm mãi vào hồn tôi là hình ảnh cô giáo tóc vàng tươi cười và vẻ rất thân ái đứng sẵn nơi cửa trường chờ đón cha con tôi buổi sáng đầu tiên cháu nhập học mẫu giáo trường Tiểu Học Hawthorne, thành phố Everett. Cậu bé không chịu theo cô vào lớp ,và cứ níu lấy quần ba. Sau nhiều lần bị cậu học trò "lạ mặt" hất tay ra, cô giáo ôm siết lấy con tôi và ra dấu bảo tôi về đị. Tôi vội vã, không dám quay đầu lại; vưà nghe tiếng gào thét của con, vừa tội nghiệp cô giáo đang chịu trận với hàm răng sâu của nó từ quê nhà mang sang chưa kịp đi nha sĩ. Chẳng hiểu cô đã "hóa phép tiên nữ" thế nào với đứa học trò màu tóc da lạ hoắc, ngôn ngữ bất đồng, lại chẳng được thơm tho mấy, so với bầy trẻ mũi lõ mắt xanh trông "đẹp như thiên thần"kia để sáng hôm sau cậu qúy tử đã vội vàng buông tôi ra và mau mắn bíu tay cô vào lớp. Nhờ vòng tay "cô như mẹ hiền" ấy , con tôi đã bước tiếp được êm ả con đường học vấn cho đến hôm nay đang là cậu sinh viên năm thứ hai của University of Washington. Một ngày nào khi con tôi đã "thành tài", cha con tôi sẽ tìm gặp lại cô giáo đầu đời của cháu, dù ngày đó không đúng vào dịp Lễ Tạ Ơn. .
Dịp Lễ Tạ Ơn, từ ngày được náu thân trên nước Mỹ, năm nào tôi cũng hướng lòng mình một cách riêng về người và xứ sở đã từ ái bảo bọc gia đình tôi trong cơn họan nạn. Không có nơi dung thân này, gia đình tôi chẳng còn đường nào khác hơn là phải tiếp tục chịu trận cuộc đời lưu đày trên chính quê hương mình; với hoàn cảnh bản thân, chắc chắn, các con tôi rồi sẽ "không lớn thành người".
Tôi cũng đã không thành người được, nếu như cách đây hơn nửa thế kỷ người và đất Miền Nam đã không mở rộng vòng tay cưu mang một triệu dân từ Miền Bắc Nước Việt trong đó có gia đình tôị. "Thành người" với một tiêu chuẩn khiêm tốn nhất, là còn phân biệt được đạo lý tổ tiên, Trời Đất, với thứ lộng ngôn hóa ma ám quỷ ... "yêu biết mấy khi con học nói tiếng đầu lòng con gọi xít ta lin; thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương mười; thằng trời đứng xuống một bên để cho nông hội đứng lên làm trời; ta đánh mỹ ngụy là đánh cho liên xô...";
"Thành người" là không thành loại người lôi me cha, kẻ vô tội, người thi ân cho mình xưa nay ra qùy trước sân đình làng, phùng mang trợn mắt chỉa chỏ đấm đá đay nghiến hỏi mày có biết tao là ai, là thứ văn hóa "mới" hơn cả "văn hóa" phường đâm cha chém chú...
*
Quê tôi nép mình bên dòng sông La, thưà hưởng chút hơi hướng gần xa của những bậc tiên sinh Cao Thắng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du ... Làng Yên Phú, không biết đã từng có một thời vàng son nào như ý nghĩa cái tên làng, nhưng thế hệ anh em tôi từ lúc chào đời đến ngày sang được bên kia bờ vĩ tuyến 17, có được mấy ngày bình yên và những chén cơm trắng. Bom đạn Mỹ và gươm súng Nhật. Trận đói Ất Dậu. Thực dân Pháp trở lại Đông Dương.Tiêu Thổ Kháng Chiến. Cải Cách Ruộng Đất. Đấu tố, và lũ lụt hàng năm. Làng tôi có bãi cát ven sông, nơi vẫy vùng tuyệt vời cho bọn trẻ, nhưng mấy khi được thả cao cánh diều. Ban ngày họa hoằn mới vắng bóng khu trục cơ và máy bay Bà Già quân Pháp. Mọi sinh hoạt phải trong đêm.
Mẹ tôi, những đêm không trăng, với gồng gánh trên vai, phải mò mẫm từng bước chân xuống bến đò cách nhà khoảng chừng cây số, đi nhóm chợ bên kia sông, và trở về trước lúc trời sáng. Có những lần chợ về, bà hớt hãi chạy vào nhà, khi thì nói vưà bị một bầy lợn con bỗng dưng hiện ra rượt theo bà rồi biến mất; khi thì bảo thấy một đám người mặc đồ trắng xoá chân đi không vướng đất lởn vởn trước mặt. Những chuyện đại loại "ma nhát" đều xảy ra khi đi ngang qua khu vườn hoang ông Bát Ẩm. Khu vườn này chỉ cách nhà tôi vườn người bác ruột kế bên.Theo kể lại, nơi đây trước kia là bãi chiến trường giữa Trang Hét và lính Tây. Trang Hét là tên hai ông Trang và ông Hét được linh mục Đậu Quang Lĩnh vốn người làng Yên Phú, lúc đó đang đứng đầu một tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp từ miền nam phái về quê ngài để vận động những nhà giàu đóng góp tiền của nhằm việc mua vũ khí. Chẳng may, khi vừa đến ở trong nhà ông Bát Ẩm thì bị lộ tông tích và quân Pháp đến bao vây kêu gọi ra đầu thú. Hai ông Trang Hét đáp trả bằng những tràng đạn. Cuộc giao tranh rất dữ dội khiến quân Pháp chết và bị thương rất nhiêù (Cha tôi nói nghe rất nhiều tiếng la hét rên rỉ của thương binh Pháp lúc họ được đưa xuống tàu thuyền đang cặp bến trước nhà tôị), mà vẫn không diệt được Trang Hét; Pháp đổi chiến thuật ,cho người bò vào đốt nhà. Khi tiếng súng yên, người ta thấy xác hai người cháy đen trong tư thế chỉa súng vào đầu nhaụ.
Cha tôi xuôi ngược trên nước sông La với chiếc thuyền gỗ chở thuê những hàng hoá như khoai sắn, cam, bưởị. lúa. ngô tùy theo mùa. Cũng đầy nguy hiểm.Có lần anh em tôi được đi theo thuyền và tưởng đã chết trôi mất xác khi bị tàu bay Pháp bắn xuống thuyền ( may mắn bỏ thuyền bơi lên bờ kịp và chui trốn giữa những hàng... khoai lang). Có lẽ do một phần anh em tôi còn quá nhỏ, phần bởi bận việc mưu sinh, hay vì lý do nào khác, cha tôi không bày tỏ tâm sự với con cái, nhưng đôi lúc qua chén rượu, ông đã để lộ nỗi tiếc nuối về một quá khứ nho phong nào đó ...
Còn anh em chúng tôi, trường làng không có, phải băng qua đồng ruộng hoang vắng, qua nghĩa trang rờn rợn đến trường xã cách xa hàng cây số, dưới lúc mưa phùn gió Bấc, lúc ánh sao đêm, và ngồi học với ghế bàn xập xệ bên ngọn đèn dầu hiu hắt của ai nấy mang theo; sinh hoạt tuổi thơ là "tranh thủ" đào hầm trốn bom dưới gốc cây các quanh vườn ("các", tên một loại cây cao to, có trái lấy hột để làm dầu gì đó mà nay tôi cũng không còn nhớ), là "chuyên ngành" hát múa "Ai yêu bác Hồ bằng các em nhi đồng; Dân Liên Xô trên cánh đồng hoa; Mặt Trời Đông..; Kết Đoàn ...". Có lần trong giờ khoa học, vào lúc tờ mờ sáng, thầy giáo bảo cả lớp ra ngoài sân kiếm mỗi đứa hai cây que làm thành đôi đũa, rồi theo thầy đi ra đồng bắt vi trùng vưà do tàu bay Pháp thả xuống lúa đêm qua; với kết quả "đạt chỉ tiêu" là tiếng nhao nhao "con nỏ chộ chi mô cả" (con không thấy gì cả) của bầy học trò. .
Tàu bay Pháp ngày càng bắn phá nhiều hơn xuống những làng trên, xóm dưới và phía bên kia sông. Thỉnh thoảng lại có xác người chết trương sình trôi lềnh bềnh ngang qua, hay tấp vào bãi cát trước nhà tôi. Chị Thái con dì Đức trên chuyến đò về chợ ngang qua sông bị bắn chết, còn may thuyền không chìm để người nhà còn đem xác chị ấy về trên cái võng ngập máu. Chú Nam con ông bà Thông Bình thì mất xác trên đường dân công tận chiến trường Điện Biên Phủ.
Người ta đang bàn tinh chuyện dân làng phải tản cư thì tự nhiên vắng hẳn tiếng tàu bay. Tin chiến thắng Điện Biên được loan truyền. Chiến tranh chấm dứt, chúng tôi đươc đi học ban ngày, được tự do thả diều, và tha hồ vật nhau ngoài bãi cát có cây đa và cây ngô đồng .
Niềm vui đất nước hết chiến tranh đến chưa được bao lâu thì thấp thoáng không khí bất an. Bộ độ kéo về làng và chia từng nhóm dăm ba người đến ở trong hầu hết nhà dân. Ngoài đường xuất hiện những băng vải ghi "Thi Đua Phát Động Phong Trào Cải Cách Ruộng Đất". Đám nhi đồng chúng tôi liên tục tập nhảy "Kết Đoàn" và"Dân Liên Xô" để trình diễn trên sân khấu dựng ngòai trời mà từ trước đến giờ chưa hề có.
Làng Yên Phú nay đang đang diễn ra những điều mới lạ khác. Bà Cu Ước trong đám nghèo nhất làng khoe với mẹ tôi, rằng bà ta cùng một số người nữa đang được mời lên xã học tập đấu tố, và bà ta sẽ được chia phần "qủa thực" (tài sản tịch thu của địa chủ). Mẹ tôi dặn anh em tôi khi ăn cơm không được nhắc đến tiếng "cá , thịt, bò, gà, lợn" mà phải gọi bằng tên rau này dưa kia ; trong bữa ăn, mặc dầu đã kiểm soát kỹ các cữa ngõ đã được đóng kín, thỉnh thoảng ông tôi buông chén đũa đi mở hé cửa quan sát bên ngoài. Những cuộc thăm viếng chuyện trò giữa người lớn với nhau nay không còn thoải mái vui cười như trước, mà trong vội vả xầm xì âu lo ...
Tin những người quen và không quen đã bị bắt bị đấu tố dồn dập từ những làng khác. Tin Dì Bang trong Hà Tĩnh vừa chết trong tù sau trận đấu tố càng khiến mẹ tôi nhất quyết không nghe theo tiếng loa ra rả kêu đi xem đấu tố. Đã 50 năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ rõ ánh mắt hãi hùng của mẹ tôi khi bị du kích đến nhà dọa nạt bắt mẹ và tôi lúc đó đang co ro bên bếp lửa, đi xem đấu tố ông Phó Tư, ông Lý Thưởng.. (Sau khi đấu tố ông Lý Thưởng khá lâu, hỏi hoài phần "quả thực" mà không được chia, bà Cu Ước đến phàn nàn với mẹ tôi, và tỏ ra hối hận đã nghe theo lời cán bộ tố cáo ông Lý Thưởng những chuyện không hề có).
Lệnh ban ra nghiêm cấm chúng tôi không được chơi với con nhà địa chủ nữa. Anh em thằng Long con ông bà Tổng Thái trắng trẻo béo tốt hôm nào nay áo quần lếch thếch mặt mày xanh xao lem luốc, treo trước ngực thùng kẹo gừng đi cùng làng chẳng mấy ai dám bất chấp lệnh cấm mua giúp anh em nó vài cục... Bọn tôi mỗi lần thấy anh em thằng Long cũng không dám lại gần vì sợ bị báo cáo lẫn nhau.
*
Viết để tạ ơn ai, mà tôi cứ dông dài về tôi, về làng tôi ở tít mãi xa xăm "chốn vạc bay" nào đó. Thực ra, có lần mò trở về như thế tôi mới nhận rõ hơn được công ơn người đã đưa anh em tôi thoát khỏi phần đất tổ tiên xưa, nay bạc phước lọt vào tay bầy qủy đữ đang ra công biến thành địa ngục, và sau này là công ơn trời bể người và đất Miền Nam đã cưu mang dạy dỗ chúng tôi thành người .
Xin tạ ơn chuyến đò bà Phương đêm khuya đã lén lút chở gia đình tôi trong nỗi ngậm ngùi ly hương trốn khỏi làng Yên Phú tang thương để tìm đường xuôi Nam.
Tạ ơn con Vện nhà bác tôi bên cạnh đêm đêm nằm ngoài thềm, hôm ấy nó đã không sủa đánh thức mấy người bộ đội ở trong nhà bác khi sáu người lớn bé chúng tôi tay xách tay mang, lục đục ra khỏi nhà dưới bóng trăng chập chờn bởi gió đong đưa cành lá.
Tạ ơn dòng nước sông La đã đưa êm ả thuyền đi.
Tạ ơn đêm Quảng Bình, người đã chia bớt phần khoai lang và cho mượn nong nia làm giường chiếu qua đêm.
Tạ ơn chiếc cầu Vĩ Tuyến đã đưa ta sang được bến bờ Tự Do.
Nói sao cho đủ lời tạ ơn người, tạ ơn đời .
Thôi thì, nhân Mùa Lễ Tạ Ơn, xin mượn lời
"Thank You America, Thank You The World",
Và nhất là,
Tạ Ơn Người Miền Nam, Đất Trời Miền Nam Nước Việt đã cưu mang và giáo dục anh em tôi thành người đúng nghĩa và hưởng đầy đủ quyền của một con người .
Chương Khuê
Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu do những nguyên do khác nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh... Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.
Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ
Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận. Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..
Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng năm có tổ chức lễ hội để cúng dường Demeter, nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.
Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và lễ lạc
Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người Do Thái vẫn còn tồn tại từ ba ngàn năm đến nay.
Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn
thịnh. Cái sừng tượng trưng múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang lại sự phồn thịnh cho những ai bà muốn ban phước.
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu có những lý do khác nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh...
Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu do những nguyên do khác nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh... Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.
Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ
Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận. Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..
Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng năm có tổ chức lễ hội để cúng dường Demeter, nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.
Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và lễ lạc
Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người Do Thái vẫn còn tồn tại từ ba ngàn năm đến nay.
Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn
thịnh. Cái sừng tượng trưng múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang lại sự phồn thịnh cho những ai bà muốn ban phước.
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu có những lý do khác nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh...
Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.
Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ - Tàu Mayflower
Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người rất sùng đạo Tin lành đã bị vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ .
Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) . Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng. Tại Anh, có những cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát...
Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một "Jérusalem mới" ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.
Nơi đến không định trước
Các Pilgrims lên tàu vào tháng 9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra tai nạn về lửa nên người ta phải ăn thức ăn lạnh. Nhiều hành khác đau bịnh. Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là "người đã làm một chuyến du hành"). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau 65 ngày trên biển lạnh, ,vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước sống hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những viên chức hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng ngày càng rộng lớn ra, không thể mời tất cả các trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.
Khó khăn lúc đầu
Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620. Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước hòa bình với người dân da đỏ khi vực láng giềng (Narranganset và Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng không quan trọng lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .
Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số 18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp. May mắn thay mùa gặt năm 1621 thành công giúp những người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.
Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.
Định ngày lễ Tạ Ơn
a) LễTạ Ơn tại Mỹ
Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc lập và khi George Washington thoát khỏi cuộc bao vây ở Valley Forge, ông đã tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.
Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc thành lập ngày lễ Tạ Ơn và sau đó bà Sarah Josepha Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.
Đến khi Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11.
Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công lao những người đã hy sinh và ôngFranklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.
b) Lễ tạ ơn tại Canada
Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng 10
Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước.
Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người rất sùng đạo Tin lành đã bị vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ .
Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) . Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng. Tại Anh, có những cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát...
Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một "Jérusalem mới" ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.
Nơi đến không định trước
Các Pilgrims lên tàu vào tháng 9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra tai nạn về lửa nên người ta phải ăn thức ăn lạnh. Nhiều hành khác đau bịnh. Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là "người đã làm một chuyến du hành"). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau 65 ngày trên biển lạnh, ,vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước sống hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những viên chức hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng ngày càng rộng lớn ra, không thể mời tất cả các trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.
Khó khăn lúc đầu
Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620. Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước hòa bình với người dân da đỏ khi vực láng giềng (Narranganset và Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng không quan trọng lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .
Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số 18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp. May mắn thay mùa gặt năm 1621 thành công giúp những người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.
Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.
Định ngày lễ Tạ Ơn
a) LễTạ Ơn tại Mỹ
Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc lập và khi George Washington thoát khỏi cuộc bao vây ở Valley Forge, ông đã tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.
Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc thành lập ngày lễ Tạ Ơn và sau đó bà Sarah Josepha Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.
Đến khi Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11.
Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công lao những người đã hy sinh và ôngFranklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.
b) Lễ tạ ơn tại Canada
Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng 10
Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước.
Các món ăn trong ngày lễ Tạ Ơn
Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ "turkey" lúc bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ ... Chắc chắn là họ không làm bánh nướng nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông không ăn khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống lại các côn trùng, nên đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).
Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp
Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây luôn luôn được gắn liền với lễ này
Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.
(Sưu tầm từ tác giả Võ Thị Diệu Hằng)
Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ "turkey" lúc bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ ... Chắc chắn là họ không làm bánh nướng nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông không ăn khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống lại các côn trùng, nên đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).
Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp
Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây luôn luôn được gắn liền với lễ này
Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.
(Sưu tầm từ tác giả Võ Thị Diệu Hằng)
Nhân ngày lể tạ ơn, xin ơn trên Mười Phương Chư Phật - Bồ Tát thương sót cho những kẻ ác độc trong chính quyền cộng sản Việt Nam này hướng thiện nhìn thấy được ánh sáng, phục thiện để được giảm nhẹ quả báo mà họ đả gieo trồng .
ReplyDeleteBài viết hay. Thắm đậm tình yêu quê hương đất nước. Những người có tâm chính nghĩa và lương thiện chắc chắn sẽ để lại phước rất lớn cho con cháu . Ngược lại những kẻ lòng lang dạ sói gây ra tội ác đối với nhân dân thì không biết lãnh quả báo tàn khốc đến đâu... Chắc quả báo củng cở như ông Gaddafi bên Libya thôi ha !!!!!
ReplyDeleteKính chúc tất cả quý vị mùa Tạ Ơn gia đình đoàn tựu, an vui và hạnh phúc trong sự gia hộ của Đấng Thế Tôn
ReplyDeleteNhân dịp Lễ Tạ Ơn tại USA, Pimmy xin chúc tất cả quí anh chị đồng hương vui vẻ bên con Gà Tây trong này lễ Tạ Ơn.
ReplyDeleteBài viết thật hay, tạo nhiều cảm xúc cho người đọc. Không biết do ai đã đưa dân tộc VN đến cảnh bần cùng như ngày hôm nay.
ReplyDeletedo ÔNG TRỜI HAY do DÂN TỘC VIỆT ÍCH KĨ HÈN NHÁT -AN PHẬN ,PHẢI CHỊU SỐNG NHỤC 66 NĂM DƯỚI ÁCH CAI TRỊ CỦA LŨ ĐỘC TÀI CS .
Trân trọng tạ ơn,
ReplyDeleteThắp nén nhang lòng kính dâng Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni, nam nữ Phật tữ những người yêu nước, vì đức tin tôn giáo đã vĩnh viễn đi vào lòng đất mẹ để bảo vệ đạo pháp giáo hội truyền thừa Việt Nam Thống Nhất trong suốt thời gian qua bị cộng sản đàn áp, triệt hạ .