Tác giả: Camilla Gibb
Dịch thuật: Lê Hoàng Việt
Hiệu đính: Hoàng Diễm Ly
Lời dịch giảTình cờ đọc được một bài viết giới thiệu về cuốn sách trên BBC News. Ngẫm lại tôi đã học English từ những năm lớp 6 đến giờ vẫn chưa đọc một nguyên tác văn học nào trên thế giới bằng tiếng Anh, cái học của mình mặc dầu không thể nói là vô dụng, nhưng cũng không hơn là bao. Lại trộm nghĩ đây cũng là một cơ hội để học rồi hành, lấy cái mình biết ra góp một phần cho những bạn muốn đọc mà không có thời gian để đọc nguyên tác, một số độc giả chưa thể đọc được nguyên tác, hay một số bạn chưa có hứng thú, thí đây là một cơ hội để tác phẩm viết về người Việt được người Việt đọc, tiếp cận với độc giả Việt, rút ngắn thời gian đọc nguyên tác hơn.
Một lý do thứ hai không kém phần quan trọng là vụ Nhân Văn Giai Phẩm hầu như ai cũng biết, nhưng chỉ là biết tên đối với giới trẻ, giới trẻ trong nước cũng như hải ngoại hầu như không có tài liệu minh xác nào, chỉ qua những lời kể thời gian không rõ ràng. Hiển nhiên, tác phẩm này chỉ là hư cấu, và là một tiểu thuyết, ta không thể căn cứ vào đây để xét đoán, nhưng viết về vụ Nhân Văn Giai Phẩm âu cũng là thêm một vài câu chuyện kể để phần nào những ai có hứng thú có thể đi xa hơn, sâu hơn, cùng giúp cộng đồng người Việt hiểu hơn lịch sử đất nước, cũng như người ngoài hiểu hơn về Việt Nam.
Tác phẩm là một lần thứ hai tôi cảm thấy rất kinh ngạc chuyện người nước ngoài viết về Việt Nam lại có thể hay như vậy, sâu sắc như vậy. Tác phẩm thứ nhất tôi được đọc bản dịch của dịch giả Dương Hiếu Nghĩa - Mẹ Việt Nam ơi dân ta có tội tình gì của một nhà báo Pháp, Pierre Darcourt, nguyên tác VIETNAM, QU'AS TU FAIT DE TES FILS? Và lần thứ hai này tôi lại có cơ duyên được đọc nguyên tác của một nhà văn Mỹ, bà Camilla Gibb, với tác phẩm: The Beauty of Humanity Movement, dịch theo như tên đề nghị là: Nét đẹp của phong trào nhân văn.
Tác phẩm hay hay không, sâu sắc hay không, thật sự cũng tùy thuộc nhiều vào góc nhìn của độc giả, của người phân tích, hay thậm chí có một số chỉ vừa đọc lời tựa hay tên truyện đã đánh giá câu truyện. Tuy vậy, tôi vẫn xin mạn phép được đưa vào đây những ý kiến riêng của mình, những cảm nhận của mình, không mong muốn định hướng người đọc hay hé lộ cốt truyện, chỉ mong đưa thêm một phần gợi mở để người đọc có thêm thông tin, cảm xúc của một người sau khi đọc tác phẩm. Ngoài ra, với tư cách một dịch giả không chuyên, cũng xin thay lời editor, một người bạn tri âm mà cuộc đời đã sắp xếp gặp trên mạng đã giúp đỡ hiệu chỉnh cuốn truyện được hoàn hảo, mong mỗi người đọc hãy luôn có một sự phê phán, phản biện, độc lập nhận xét với câu truyện. Bởi vì qua bản dịch, dù vô tình hay cố ý, dịch giả cũng đã chuyển nguyên tác về một góc nhìn của dịch giả lẫn tác giả, dẫu góc nhín đó luôn ý thức hãy trung lập. Nếu độc giả sau khi đọc cảm thấy không hay, thí đó cũng là lỗi của người dịch không tốt vậy.
Có một số hạn chế, với những dịch giả, và nhất là những dịch giả không chuyên là làm cách nào để giữ được một cái nhìn trung lập mà lại chuyển đi được toàn vẹn cảm xúc của câu chuyện, những ý định tác giả đã gửi gắm vào đó. Nền văn hóa khác nhau đã gây ra những nhận thức khác nhau là một chuyện, ngôn từ khác nhau lại là một vấn đề đau đầu nữa mà quả thật khi dịch tôi luôn gặp lúng túng. Một vốn kiến thức nông cạn, một tác phẩm chuyển dịch đầu tay, một người không chuyên nghiệp, kinh nghiệm sống nhỏ nhoi, hẳn sẽ để lại trong bản dịch muôn ngàn hạt sạn. Bởi tác phẩm được viết cho miền Bắc, cho trái tim Hà Nội, nhưng dịch giả lại là người miền Trung, học Đại Học ở Sài Gòn, editor cũng ở Sài Gòn, chắc chắn phong tục tập quán miền Bắc không rành rọt, ngôn từ lại càng không chuẩn, nên chi rất mong tất cả sự lượng thứ và đóng góp.
Về mặt dịch thuật, có những hoàn cảnh được tác giả xây dựng đối thoại giữa những nhóm người, khi cao trào, vẫn chỉ là "I - You", dịch giả thường gặp khó khăn khi gắng giữ một thái độ trung lập, dịch là mày-tao, cậu-tớ hay thằng này, gã kia, tên kia đây?! Bởi lời nói của nhân vật ngoài biểu thị thái độ của nhân vật đó, còn biểu thị quan điểm của tác giả, thà rằng tác giả viết rằng "you bastard" ta còn có thể dịch theo nghĩa tiêu cực, nhưng chỉ có "I - You" thường tôi rất băn khoăn không biết phải đâu mới đúng. Hay đôi khi chỉ một con người xa lạ, chỉ giới thiệu vài dòng "The nurse" rồi biến mất mãi mãi, nếu cứ dùng nguyên nghĩa "người y tá" mãi đọc cũng sinh nhàm, mà dùng đại từ nhân xưng để thay thế thì thật băn khoăn không biết cần dùng : anh ấy hay ông ta, cô ấy hay bà ấy, quả thật là rắc rối, bởi tác giả không xác định giới tình người ta!
Một khó khăn khác là có những ngôn, hành, không có trong tiếng Việt. Và sau 24 năm sống trên cõi đời này, tôi mới nhận ra được một điều rằng tiếng Việt của chúng ta không phải là vạn năng, những từ mới luôn phát sinh, và luôn thiếu những từ để biểu thị sự vật hiện tượng. Ngay trong bản thân tiếng Việt, chúng ta có cụm từ "Nhân Văn" thì "Nhân" nghĩa là con người, "Văn" là vẻ đẹp, "Nhân Văn" đã hàm ý là vẻ đẹp của con người, của nhân loại; nhưng đôi khi ta vẫn dịch cho dễ hiểu là nét đẹp nhân văn. Như trong nguyên tác, có một đoạn nhỏ miêu tả anh Tư, một chàng trai Hà Thành nấu phở, anh ta lấy một thía nước mắm và hắt nó vào nồi, trong nguyên tác sử dụng từ "slash of nước mắm", nó là một cái vung, cái vẩy, một đoạn nước mắm trong thìa, không nhiều, không ìt, nhanh chóng, nhưng hầu như ta không biết phải diễn tả thế nào cho đúng chỉ trong đôi ba từ, nhiều quá thí rườm rà, trong khi nguyên tác chỉ cần 1 từ mà diễn ý. Quả thật, có những cái khó mà nếu không trải qua ta sẽ chẳng thể nhận ra được, cũng như những cái hay của một dịch giả trong quá trình dịch, quá trính đi tím hiểu những từ lóng, những hình ảnh, những phong tục. Và rồi nhận ra một điều, tại sao một tác giả người Mỹ, lại am hiểu Việt Nam như vậy?!
Hẳn nhiên, một người nước ngoài thì nhìn Việt Nam qua con mắt nước ngoài, có những cảm nhận, những hiểu (lầm) theo cách của họ, nhưng nhín chung rộng lượng, ta sẽ thấy rằng tác giả là một người hiểu rất rõ người Việt, một số khía cạnh, một số lĩnh vực rất đáng khâm phục, cũng như khéo léo lồng vào đó quan điểm của một người rất Mỹ thông qua cô gái Việt Kiều Maggie, quan điểm về sự tự do đối với nghệ thuật đương đại, và Tư, với quan điểm của một người Việt Nam đang còn nằm ở giữa kì chuyển tiếp với cái nhìn nửa bảo thủ nửa cởi mở.
Câu chuyện còn đưa chúng ta quay lại thời quá khứ, những năm cải cách điền địa, có vài phê phán nhẹ nhàng được đưa ra dưới góc nhìn của ông già bán phở Hưng, nhưng trên hết là một điều đã, đang, và tiếp tục được "chúng ta" xóa đi những vết tích, xóa bỏ lẫn thay đổi lịch sử, và một bộ phận lớn giới trẻ đang quan tâm hơn đến tương lai hơn là quá khứ, thì tác giả lại hiểu khá sâu sắc, tất nhiên sẽ chẳng có cứ liệu lịch sử nào đưa ra trong này, đây chỉ đơn thuần là một tác phẩm tiểu thuyết, nhưng rồi chúng ta, khi hiểu lịch sử, đọc tác phẩm, sẽ càng cảm phục những hiểu biết và cảm nhận, cũng như những sự thật (hư cấu) trong truyện. Tại sao lại là sự thật hư cấu, vì nó là sự thật, nhưng hư cấu qua tiểu tiết, tình tiết trong truyện.
Bên cạnh lịch sử, những cụm từ mà giờ đây đã lãng quên trong giới trẻ, một số gốc từ sẽ được dịch giả chú thích ở nửa sau tiểu thuyết như "Trotsky", "China Beach"... ta sẽ tìm thấy sự hiện đại, đương đại, một Việt Nam mạnh mẽ vươn lên, cũng như những góc tối của xã hội hiện tại. Câu chuyện là sự đan xen giữa hiện tại, quá khứ, và hướng đến tương lai, một sự thật rõ ràng là tác giả hiện tại đang viết về quá khứ, cuộc đời qua lời kể của những con người.
Chúng ta nghĩ gí khi biết rằng từng chi tiết nhỏ của người Việt Nam đều được người nước ngoài nhìn nhận, sự thật vẫn là sự thật, nó vẫn phơi bày ra đó dù người ta không để ý hay khỏa lấp, người nước ngoài thấy chúng ta đi, chúng ta đứng, thấy những hàng xe đan cửi trên đường, thấy một người khạc nhổ giữa phố, thấy vài gã say khật khưỡng trong đêm, thấy những bà bán hàng quán xúm lại mời mọc gây phiền hà, thấy những người Hà Nội kì thị Việt Kiều, xem họ như những kẻ bỏ chạy theo giặc, người nước ngoài cũng thấy những con người của một dân tộc thờ phượng tổ tiên, coi trọng mồ mả cha ông phải bỏ xứ mà đi, phải tị nạn, phải khai sinh ra cái tên "thuyền nhân", rồi ngày nay, người nước ngoài đi dạo qua khu phố cổ, trong con hẻm tối họ thấy một người đàn bà đang ngồi tiểu, họ thấy ông già bán phở dạo bị truy đuổi, bị đánh, bị bắt đóng thuế kinh doanh. Than ôi, tôi từng nghĩ đến, ai cũng từng nghĩ đến, nhưng phải khi đọc một tác phẩm đương đại ta mới thấy rằng người nước ngoài vẫn luôn nhín người Việt Nam đó thôi, dẫu ta biết hay không.
Tác giả sẽ đưa chúng ta qua một món ăn đã trở thành một trong những linh hồn của Hà Nội, một trong những món ăn của Việt Nam, Phở! Phở dưới sự chế biến cầu kì của người nghệ sĩ nấu phở, ông già Hưng, hay của chàng trai trẻ Tư, Phở được làm từ những sợi rong trong một cái ao, hay Phở được làm từ những nguyên liệu cao cấp, những bước chế biến, cũng được tác giả chăm chút miêu tả khá kĩ càng, từ bước chế biến đến cảm xúc người nấu, người ăn. Tại sao phở lại chế biến từ những sợi rong?! Là bởi những năm tháng bao cấp chúng ta cơm còn chẳng đủ mà ăn, nói gí đến phở, mà đến nỗi tôi lo ngại giả như kéo dài chừng vài chục năm nữa, liệu chăng những món ăn quốc hồn quốc túy chỉ còn là dĩ vãng?!
Cái đói khát, cái nghèo nàn mà chẳng sách vở nào miêu tả, và chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết nếu không tím không đọc, tím cũng chưa chắc ra, là những năm tháng sau cải cách điền địa, nếu sách vở chính thống chỉ cho ta những lời lẽ đơn giản như sản xuất suy giảm, năng suất thấp, thí đến với tác phẩm, ta sẽ có một góc nhìn rất con người hơn, là thực phẩm giảm đi như thế nào, từ từ, chậm rãi, chúng tác động đến đời sống thành thị vừa nhanh lại vừa chậm, ông bán hàng thịt không còn thịt để bán, rau cỏ trong chợ chỉ còn chăng những bó rau héo, những quả dòi đục, một không khí u ám nặng nề, và sự tuyên truyền mỗi ngày được phát đi phát lại không mỏi mệt. Lại bất chợt nghĩ mà khâm phục tác giả lấy đâu ra những cảm nhận đó để mà viết nên đây?!
Nếu ai đã nghe nhạc, hẳn người Việt Nam nào ít nhiều cũng đều biết nhạc phẩm "Gửi người em gái" của cố nhạc sĩ Đoàn Chuẩn - Từ Linh; trong nhạc phẩm sáng tác năm 1956 ấy có đoạn "Hà Nội chờ đón Tết, vắng bóng người đi, liễu rũ mà chi..." miêu tả một Hà Nội chờ đón Tết không tấp nập người đi, mà vắng bóng lặng lẽ, tại sao lại vắng bóng lặng lẽ, do chiến tranh ư, không, không phải chiến tranh, vậy do đâu thí đành để lại cho độc giả tự tìm hiểu vậy, sau này được cố ý đặt lại rằng "Hà Nội chờ đón Tết, hoa chen người đi..." tôi lại nhớ đến một câu nói của người thầy dạy nhạc rất lâu trước đây: mỗi nghệ sĩ là một chứng nhân lịch sử, không thể phủ nhận sự thật trong lịch sử được, sự thật qua thi ca, qua âm nhạc. Dẫu mai sau dù lịch sử đã hoàn toàn bị xóa bỏ hay thay đổi, thí lúc này đây, lịch sử vẫn đang xảy ra, trôi qua từng phút khắc một là sự thật. Và trở lại với tác phẩm, ta sẽ được tác giả dẫn dắt cả trong nghệ thuật những năm tháng xưa và nghệ thuật đương đại của Việt Nam, với sự Tây hóa, với sự chuyển mình mạnh mẽ, cả nét đẹp lẫn tính xấu, giữa những tác phẩm được sáng tác và tác giả chết trong đói nghèo như Bùi Xuân Phái nay được bán cả hàng ngàn Dollar và những sáng tác được làm một cách công nghiệp, với những họa sĩ bị đồng tiền chi phối, với những gallery, những phòng tranh ở Hà Nội, những thực trạng, hay cũng chình là những nét hiện đại của Việt Nam đang hướng đến. Tất nhiên, những nghệ sĩ chết trong đói nghèo thí nhiều không kể xiết, hầu hết ở miền Bắc, và tôi cũng chỉ nghe nói nghệ sĩ chết ví đói nghèo ở miền Bắc, lại là thủ đô Hà Nội, nếu muốn biết rõ hơn, độc giả có thể tự tìm hiểu vài nghệ sĩ như: Đặng Thế Phong, Nguyễn Văn Thương (nhạc phẩm Đêm Đông sáng tác trong đêm giao thừa ở Hà Nội 1939 khi nhạc sĩ lang thang giữa phố phường vắng lạnh vì không có tiền về Huế…)
Cuối cùng, với tất cả những sự trân trọng và biết ơn. Đầu tiên, cảm ơn tác giả đã cho chúng ta thêm một tài liệu, một cứ liệu, một góc nhìn về Việt Nam, lịch sử và đương đại, một tác phẩm trong kho tàng văn học của thế giới tin rằng sẽ làm sâu sắc hơn nhận thức của người đọc, khắc họa lại một Việt Nam mới mẻ trong tâm trì độc giả. Tôi cảm ơn những người, cuộc đời đã cho tôi những thứ tôi có để hoàn thành tác phẩm, là tri thức, là kinh nghiệm sống, là cơ sở học hành. Đặc biệt cảm ơn người bạn đã luôn đồng hành cùng tôi trong quá trình dịch truyện, người đã nhiệt tình giúp tôi edit tác phẩm, với tất cả lòng tri âm, mến mộ, và cả tình cảm đặc biệt dù chúng ta chưa một lần gặp mặt, nhưng tin rằng trong một lúc nào đó thí tôi mạn phép gọi là đồng điệu tâm hồn, bạn Hoàng Diễm Ly. Sau rốt, một phần rất lớn tài liệu được tham khảo từ hệ thống tìm kiếm Google, wikipedia, Google Images, Google Translate và trang web tratu.soha.vn.
Trân trọng,
Tùy Phong.
Tùy Phong.
Seoul, 2012 February 2nd (last edit: February 18th)
***
Nét đẹp của Phong Trào Nhân Văn
The Beauty of Humanity Movement
Tác giả: Camilla Gibb
Dịch thuật: Lê Hoàng Việt
Hiệu đính: Hoàng Diễm Ly
* Để đọc toàn bộ tác phẩm với kích cỡ chữ lớn hơn, mời các bạn click chuột vào đường dẫn sau:
https://docs.google.com/open?id=0B2lhqEPNsYTnbGpUZjc0WGJUSWluNS1qcWk3T1RvQQ
Để tải tác phẩm về máy, bạn đọc vui lòng di chuyển chuột đến góc phải, chọn File --> Download Original (Ctrl+S)
Nói thêm về tiểu thuyết “The Beauty of Humanity Movement”
Phạm Hồng Sơn (danlambao) - “The Beauty of Humanity Movement” là cuốn tiểu thuyết của nữ nhà văn, người Canada, Camilla Gibb, do Doubleday Canada xuất bản lần đầu tháng 09/2010 và vừa tái bản tại Mỹ và Anh đầu năm 2011. Tiểu thuyết này đã được BBC tiếng Việt giới thiệu, nhưng sau khi trực tiếp đọc cuốn truyện tôi thấy những gì BBC giới thiệu chưa đủ nói lên được những điều quan trọng cuốn truyện muốn truyền tải tới bạn đọc – những điều, theo đánh giá của cá nhân tôi, đang rất cần cho sự phát triển của Việt Nam. Vậy xin giới thiệu và chia sẻ thêm với độc giả.
Trung tâm của cuốn tiểu thuyết “The Beauty of Humanity Movement” (tạm dịch: Vẻ đẹp của Phong trào Nhân văn) xoay quanh một ông già bán phở rong tại Hà Nội có biệt tài trong cách chế biến nước dùng phở vào thời điểm khoảng năm 2007. Nhưng câu chuyện sẽ dẫn ta qua một quãng thời gian trải dài từ những năm 40, 50 của thế kỷ trước, qua các thời kỳ “cải cách ruộng đất”, “bao cấp”, qua “đổi mới” và tới tận sát thời điểm cuốn sách được xuất bản. Ông già Hưng bán phở rong chính là một nhân chứng, một người bạn, một người học trò và là ân nhân của một nhóm thực khách quen thuộc ở quán phở của ông tại Hà Nội vào những năm 1950. Những thực khách quen xa xưa đó là những họa sỹ, nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng không chấp nhận sự chỉ đạo, áp đặt, nô dịch về suy nghĩ, sáng tác của chế độ mới hình thành trên miền Bắc Việt Nam sau cuộc “cách mạng” do những người cộng sản lãnh đạo. Nhân vât thứ hai là một cô gái Việt kiều người Mỹ, có tên Maggie Lý, trở lại Việt Nam để tìm lại bố, đúng hơn là đi tìm lại quá khứ và hình ảnh của người bố đã bị mất liên lạc với mẹ con cô, khi cô (lúc đó mới vài tuổi) và mẹ vội vã lên máy bay sang Mỹ trong những giây phút hỗn loạn của thời khắc 30/04/1975. Một trong những điều thôi thúc Maggie Lý đi tìm lại quá khứ của bố mình là ký ức tuổi thơ của cô về những ngón tay cong queo như những móng chim của bố cố quặp chiếc bút để vẽ cho cô những bức tranh. Bố của Maggie Lý chính là một cộng tác viên của phong trào “Nhân văn”, ông đã trốn thoát vào Nam và sau đó bị kẹt lại Sài gòn trong những giây phút định mệnh cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, rồi mất tích. Gặp nhiều trắc trở và có nhiều lúc Maggie Lý định bỏ cuộc, không chỉ vì thấy vô vọng mà cô còn phát hiện ra bố cô chỉ là một trong số hàng triệu nạn nhân của chế độ mà bố cô đã phải chạy trốn và bố cô cũng chưa phải là nạn nhân bất hạnh nhất. Cuối cùng, Maggie Lý đã xác định lại được đúng lịch sử của bố mình, một họa sỹ không khuất phục bạo quyền đã bị “người ta” cố tình loại bỏ khỏi nghề nghiệp (bằng những viên gạch đập lên các ngón tay cho đến nát) và tẩy đi mọi dấu vết đã hiện diện trên đời dù là nhỏ nhất (như cái tên sinh viên trong hồ sơ lưu trữ của một trường mỹ thuật). Từ hai nhân vật chính này độc giả sẽ gặp thêm nhiều nhân vật với những tính cách, quá khứ, quan niệm, trăn trở khác nhau về cuộc sống, xã hội thuộc nhiều thời kỳ của Việt Nam, từ thời “xếp hàng cả ngày để mong mua được vài miếng thịt tiêu chuẩn rồi cuối cùng được trả lời là “hôm nay không có thịt” “, thời của những thanh niên đắm đuối với Việt Nam Idol, hay những nhân vật, những cái tên chỉ xuất hiện thoáng qua cũng đủ gợi lên những suy nghĩ trái ngược hay làm nhớ đến những biến cố, biến chuyển lớn, phức tạp của Việt Nam trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.
Nhưng “The Beauty of Humanity Movement” không chỉ làm nổi lên sự bi tráng, bi kịch của “Nhân văn-Giai phẩm” hay những nhẫn tâm, ác độc, xảo quyệt trong việc dập tắt khát vọng tự do của giới nghệ sỹ, trí thức. Với cách tiếp cận đa diện về chính trị, văn hóa, lịch sử, truyền thống, “The Beauty of Humanity Movement” còn làm bật lên những thiếu hụt nhận thức có tính nền tảng cho một Việt Nam dân chủ như sự nhận thức đúng về tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, chủ nghĩa tư bản có trách nhiệm (responsible capitalism), hòa giải, hòa hợp giữa người Việt Nam với nhau hay việc hiểu được đúng hậu quả mối quan hệ giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh…
Khi gập cuốn truyện lại, lúc không còn trang nào để lật nữa, độc giả Việt Nam vẫn có thể phải vấn vương mãi trong đầu nhiều điều mà các nhân vật hay người kể chuyện đã nói đến hay gợi ra. Ta đã hiểu đúng về tự do ngôn luận chưa nếu ta không muốn để người khác được nói ra điều mà ta cho là lố lăng, là có hại cho xã hội? Đất nước có “đứng lên” (emerging) được không, có chống được cái ác không, nếu ai cũng chỉ coi gia đình mình là quan trọng nhất? Phải chăng sự trì trệ, lạc hậu trong chính suy nghĩ của ta là nguyên nhân của những bất công, ngang trái ngoài xã hội? Tư lợi (self-interest) có luôn luôn là điều xấu như ta vẫn nghĩ? Một đất nước sẽ ra sao khi nó tự xóa đi lịch sử của mình, xóa đi hết thảy những gì trái ngược với Đảng? v.v.
Có thể nhiều nhà văn Việt Nam cũng để ý, trăn trở tới những vấn đề tương tự kể trên, nhưng để có một tác phẩm văn học Việt nêu lên được những vấn đề như thế, đến nay, vẫn không phải là điều dễ dàng. Vì vậy “The Beauty of Humanity Movement” là một tác phẩm văn học không chỉ hữu ích cho người Việt Nam mà còn rất xứng đáng được người Việt Nam trân trọng, cảm ơn. Chỉ tiếc rằng “The Beauty of Humanity Movement” chưa được dịch sang tiếng Việt và nếu có được dịch cũng chưa thể xuất bản một cách hợp pháp tại Việt Nam.
18/09/2011
Trung tâm của cuốn tiểu thuyết “The Beauty of Humanity Movement” (tạm dịch: Vẻ đẹp của Phong trào Nhân văn) xoay quanh một ông già bán phở rong tại Hà Nội có biệt tài trong cách chế biến nước dùng phở vào thời điểm khoảng năm 2007. Nhưng câu chuyện sẽ dẫn ta qua một quãng thời gian trải dài từ những năm 40, 50 của thế kỷ trước, qua các thời kỳ “cải cách ruộng đất”, “bao cấp”, qua “đổi mới” và tới tận sát thời điểm cuốn sách được xuất bản. Ông già Hưng bán phở rong chính là một nhân chứng, một người bạn, một người học trò và là ân nhân của một nhóm thực khách quen thuộc ở quán phở của ông tại Hà Nội vào những năm 1950. Những thực khách quen xa xưa đó là những họa sỹ, nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng không chấp nhận sự chỉ đạo, áp đặt, nô dịch về suy nghĩ, sáng tác của chế độ mới hình thành trên miền Bắc Việt Nam sau cuộc “cách mạng” do những người cộng sản lãnh đạo. Nhân vât thứ hai là một cô gái Việt kiều người Mỹ, có tên Maggie Lý, trở lại Việt Nam để tìm lại bố, đúng hơn là đi tìm lại quá khứ và hình ảnh của người bố đã bị mất liên lạc với mẹ con cô, khi cô (lúc đó mới vài tuổi) và mẹ vội vã lên máy bay sang Mỹ trong những giây phút hỗn loạn của thời khắc 30/04/1975. Một trong những điều thôi thúc Maggie Lý đi tìm lại quá khứ của bố mình là ký ức tuổi thơ của cô về những ngón tay cong queo như những móng chim của bố cố quặp chiếc bút để vẽ cho cô những bức tranh. Bố của Maggie Lý chính là một cộng tác viên của phong trào “Nhân văn”, ông đã trốn thoát vào Nam và sau đó bị kẹt lại Sài gòn trong những giây phút định mệnh cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, rồi mất tích. Gặp nhiều trắc trở và có nhiều lúc Maggie Lý định bỏ cuộc, không chỉ vì thấy vô vọng mà cô còn phát hiện ra bố cô chỉ là một trong số hàng triệu nạn nhân của chế độ mà bố cô đã phải chạy trốn và bố cô cũng chưa phải là nạn nhân bất hạnh nhất. Cuối cùng, Maggie Lý đã xác định lại được đúng lịch sử của bố mình, một họa sỹ không khuất phục bạo quyền đã bị “người ta” cố tình loại bỏ khỏi nghề nghiệp (bằng những viên gạch đập lên các ngón tay cho đến nát) và tẩy đi mọi dấu vết đã hiện diện trên đời dù là nhỏ nhất (như cái tên sinh viên trong hồ sơ lưu trữ của một trường mỹ thuật). Từ hai nhân vật chính này độc giả sẽ gặp thêm nhiều nhân vật với những tính cách, quá khứ, quan niệm, trăn trở khác nhau về cuộc sống, xã hội thuộc nhiều thời kỳ của Việt Nam, từ thời “xếp hàng cả ngày để mong mua được vài miếng thịt tiêu chuẩn rồi cuối cùng được trả lời là “hôm nay không có thịt” “, thời của những thanh niên đắm đuối với Việt Nam Idol, hay những nhân vật, những cái tên chỉ xuất hiện thoáng qua cũng đủ gợi lên những suy nghĩ trái ngược hay làm nhớ đến những biến cố, biến chuyển lớn, phức tạp của Việt Nam trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.
Nhưng “The Beauty of Humanity Movement” không chỉ làm nổi lên sự bi tráng, bi kịch của “Nhân văn-Giai phẩm” hay những nhẫn tâm, ác độc, xảo quyệt trong việc dập tắt khát vọng tự do của giới nghệ sỹ, trí thức. Với cách tiếp cận đa diện về chính trị, văn hóa, lịch sử, truyền thống, “The Beauty of Humanity Movement” còn làm bật lên những thiếu hụt nhận thức có tính nền tảng cho một Việt Nam dân chủ như sự nhận thức đúng về tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, chủ nghĩa tư bản có trách nhiệm (responsible capitalism), hòa giải, hòa hợp giữa người Việt Nam với nhau hay việc hiểu được đúng hậu quả mối quan hệ giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh…
Khi gập cuốn truyện lại, lúc không còn trang nào để lật nữa, độc giả Việt Nam vẫn có thể phải vấn vương mãi trong đầu nhiều điều mà các nhân vật hay người kể chuyện đã nói đến hay gợi ra. Ta đã hiểu đúng về tự do ngôn luận chưa nếu ta không muốn để người khác được nói ra điều mà ta cho là lố lăng, là có hại cho xã hội? Đất nước có “đứng lên” (emerging) được không, có chống được cái ác không, nếu ai cũng chỉ coi gia đình mình là quan trọng nhất? Phải chăng sự trì trệ, lạc hậu trong chính suy nghĩ của ta là nguyên nhân của những bất công, ngang trái ngoài xã hội? Tư lợi (self-interest) có luôn luôn là điều xấu như ta vẫn nghĩ? Một đất nước sẽ ra sao khi nó tự xóa đi lịch sử của mình, xóa đi hết thảy những gì trái ngược với Đảng? v.v.
Có thể nhiều nhà văn Việt Nam cũng để ý, trăn trở tới những vấn đề tương tự kể trên, nhưng để có một tác phẩm văn học Việt nêu lên được những vấn đề như thế, đến nay, vẫn không phải là điều dễ dàng. Vì vậy “The Beauty of Humanity Movement” là một tác phẩm văn học không chỉ hữu ích cho người Việt Nam mà còn rất xứng đáng được người Việt Nam trân trọng, cảm ơn. Chỉ tiếc rằng “The Beauty of Humanity Movement” chưa được dịch sang tiếng Việt và nếu có được dịch cũng chưa thể xuất bản một cách hợp pháp tại Việt Nam.
18/09/2011
Nước đã mất, nhà không còn, thân danh tan nát, nhục nhả không biết nước mấy sông, mấy biển mới rửa cho sạch, không lo cứu nước, cứu thân mình... còn lo nói chuyện văn học với chả văn chương...phở tái, dồi chó, rựa mận! Thế mới rõ nòi Việt Nam có những loài cáo loài chồn xen lẫn! Nhục! Đại Nhục! Chẳng trách bọn Tàu không quyết định đè đầu, cưỡi cổ mãi sao được? Có những con người chỉ biết có cái ăn, dù cho cám lú cũng ăn!!! Thật hết biết! Sáu mươi bảy năm cộng sản, con người chẳng còn ra con người nữa!!!!!!!!!!!
ReplyDeleteCám ơn dịch giả , cho phép tôi lưu ở Blog cá nhân để đọc.
ReplyDeleteCám ơn Lê Hoàng Việt, Hoàng Diễm Ly đã vì Vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm mà lược dịch, post lên cho mọi người nghiền ngẫm .
ReplyDeleteKhổ ghê, lại một tác phẩm hay, thuôc loại The Best Seller, hoàn toàn liên quan đến lịch sử Việt, tập quán Việt.....của người Việt, lại hoàn toàn do một người không có chút gì giống Việt viết.
ReplyDeleteRõ ràng là trong giai đoạn đó, cả dân tộc ta đang NGỦ MÊ , nên "không thấy được điêu mà thiên hạ ai cũng thấy".
MỘNG mà cứ vẫn mãi tin là THỰC khổ ghê !.
Khi nào thì dân tộc tôi tỉnh ngủ hả trời.
BUỒN!
Tôi chia nỗi buồn này với Bác nhé!.... Tội nghiệp cho một đất nước đã bị Đảng CS bán mất đi cái LINH HỒN này cho Quỹ.
DeleteMột nước Việt Vô Hồn !.
Hén chi: Vô văn hóa, vô thần, vô nhân, vô nghĩa, vô lý, vô trí.....cuồn cuộn bay về phủ lên dân tộc tôi là đúng rồi . Hãy TỈNH dậy bà con tôi ơi!.
Anh chị ai có bản gốc tiếng Anh có thể cho tôi xin một bản được không ?
ReplyDeletemail tôi là : dinhdung271188888@yahoo.com.vn
Bản gốc tiếng Anh nhé . Vì tôi đang muốn học tiếng anh mà .
Cảm ơn anh, chị rất nhiều !
Mình củng muốn xin địa chỉ Link web để đọc cuốn sách này nguyên bản Anh Ngữ trên mạng . Cảm ơn rất nhiều !
ReplyDelete