Huệ Lộc - Nhận Định về bài viết "Đôi Lời Tự Bạch Của Hoà Thượng Thích Viên Định Nguyên Viện Trưởng VHĐ GHPGVNTN"
I. Phần I
A. Trích nguyên văn:
"ĐÔI LỜI TỰ BẠCH
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
- Kính bạch Giác linh Đức Đệ Tứ Tăng Thống,
- Kính bạch Đức Đệ Ngũ Tăng Thống,
- Kính bạch Chư tôn đức Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN,...
- Kính bạch Quý Giáo hội, Quý Ban Đại Diện các cấp trong và ngoài nước,
- Kính bạch Chư tôn đức Tổ Đình Thập Tháp,
- Kính thưa Quý Thiện hữu tri thức, Cư sĩ và đồng bào Phật tử.
Kính bạch Chư tôn đức và thưa Quý liệt vị,
Chư Tổ dạy rằng, văn tự ngữ ngôn còn trong vòng đối đãi, dễ gây tranh cãi, hơn thua. Chỉ có vô ngôn, im lặng mới không còn thị phi, bỉ thử. Nhưng vì những nghi ngờ, hoang mang trong chư Tăng và Phật tử về biến động GHPGVNTN thời gian qua, nên cần có vài lời để làm sáng tỏ. Vấn đề này không đơn thuần là việc cá nhân mà là việc chung của Giáo hội."
B. Nhận định :
1. Có phải là Vô Ngôn?: Người tu hành tâm ý phải rỏ ràng. Hể ý muốn không thì miệng phải nói không theo; chớ không phải ý thì không muốn nói, mà cái miệng nhịn không nổi rốt cuộc lại buông tiếng. Như vậy có khác gì người thế gian, cũng bình thường như mọi người thôi, đâu có khác gì ai. Hảy nhìn Ngài Huyền Quang hay Ngài Quảng Độ thì biết một lời nói ra , hể một là một, hai là hai , không hề đổi ý trước bất cứ một áp lực nào, thế mới đúng là bậc chân nhân xuất thế. Nhìn lại Sư, ý muốn ở một nơi mà khẫu khí nghiêng qua một ngả. Sư nói quí mến im lặng sao bây giờ lại mở miệng, há không phải tự mình nhịn không nổi việc thị phi rồi. Vậy tiếng Vô Ngôn lại được hiểu ra như là sự im lặng, thì người câm cũng có được Vô Ngôn? như vậy thì Vô Niệm là không suy nghỉ chớ gì? Vậy một cụ già bị bịnh lãng trí ở viện dưỡng lão cũng thành tựu được vô niệm rồi ? Như vậy tu chi cho cực khổ, chỉ cần câm lặng thì được Vô Ngôn; lãng trí thì được Vô Niệm. Đạo Phật đâu quá thấp hèn như thế được. Vả lại Vô Ngôn đâu phải là "vô lời" đâu mà nói rằng im lặng. Vô Niệm đâu phải là không còn phân biệt được đúng hay sai. Sư có nghe đức Phật từng nói rằng: trong 49 năm chuyển pháp luân, Ngài chưa hề nói một câu nào? Nếu Phật không nói thì Kinh từ đâu ra? Như vậy cái mà Sư nói "chỉ có vô ngôn hay im lặng mới không còn thị phi, bỉ thử" đó, đâu thể áp dụng cho người mù mịt như Sư được. Sư không nghe nói câu "sắc tức thị không, không tức thị sắc" ? Vô ngôn tự nó là Đạo chứa cả hai mặt sắc và không, có lời và không lời đều thuận với đạo lý thì đó là Vô Ngôn vì Vô Ngã Tướng. Còn Vô Niệm chính là chánh niệm chớ không phải Tà niệm.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Chương thứ tư , Định- Huệ, Ngài Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
" Chư Thiện tri thức, đối với các cảnh mà tâm chẳng nhiễm, gọi là Không Niệm (Vô Niệm). Trong các niệm tưởng của mình, tâm thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sanh tâm (vọng động). Bằng đối với trăm việc ác, tâm chẳng nghĩ đến, các niệm tưởng đều bỏ hết, và nếu một niệm dứt tuyệt, thì chết liền và phải chịu đầu thai sanh chổ khác. Ấy là một điều lầm to, người học Đạo khá suy nghĩ lấy đó. Nếu chẳng biết cái ý chỉ của Pháp (hành đạo), tự mình lầm còn khá, sợ e lại khuyên dạy người khác. Tự mình mê mà chẳng thấy, lại còn nhạo báng kinh Phật. Bởi vậy mới lập Không Niệm là tông" .
Vô ngôn hay Vô niệm hay Không Niệm chính là một, tuy khác danh mà cùng nghĩa, là lúc tìm về Bổn tánh vốn không có một Pháp nào mà tìm được. Nếu thấy có cái chổ nào bám chắc vào (pháp) cho đó nơi xa lìa bĩ, thử thì cũng còn là cái trần lao, tà kiến.
Người có niệm mới có sự sống; có ngôn từ mới sinh động như muôn hoa đua nở, tuy nhiên phải là chánh ngôn, chánh niệm thì mới có cảnh an lạc hạnh phúc. Dù Sư có im lặng mà tâm ý đão điên do việc mình gây tạo, thì cái im lặng chỉ là sự câm lặng của Á Dương Tăng thôi, chớ đâu phải là Vô Ngôn. Trong Kinh Bách Dụ có một câu chuyện gọi là "Khoanh tay chịu đòn" như sau:
Thuở xưa, có một anh ngốc sói đầu, ngày nọ có người thấy đầu anh không có tóc bèn dùng trái lê đánh lên đầu. Đầu anh bị đánh nhiều lần, máu tuôn ra lênh láng.
Tuy bị đánh, anh ngốc vẫn đứng im lặng chịu đòn, không kháng cự, không trốn tránh. Bấy giờ, có người thấy thế trong lòng bất nhẫn liền bảo anh rằng:
-Vì sao anh cứ đứng trơ ra mà chịu đánh. Nếu không đánh lại, thì anh nên tránh đi mới phải . Kìa xem, đầu anh đầy cả máu, không sợ đau à?
Anh ngốc đáp rằng:
- Ôi! Người ngu này rất xấc láo, nó không hiểu gì cả. Vì thấy đầu ta không tóc, nó tưởng là viên đá xinh xắn, nên mới tuỳ tiện dùng trái lê đánh lên, không biết đó là đầu ta. Nó đánh ta đến nổi máu ra lênh láng. Ông ơi ! Đối với hạng người vô trí thức ấy, ta chẳng biết tính làm sao được.
Người kia nghe rồi rất giận, liền trách mắng anh ngốc rằng:
- Anh thật là đáng thương , người ta đánh đến nổi đầu bị thương, máu ra dường ấy mà vẫn đứng chân không lay động, như thế chẳng phải là người ngu si chớ là gì?
Luận: Người tu mà không có tâm chân thật giử giới tu tâm, chỉ gò ép bên ngoài, trau sửa lời nói nhỏ nhẹ mong được người cúng dường cung kính. Kết quả tự mình chịu khổ vô cùng. Bậc tu hành thế nầy và kẽ ngốc kia đều là hạng ngu si.
2 . Việc chung hay việc riêng ?: Việc chung của giáo hội thì phải có ý kiến của Tăng Thống đầu tiên hết , nhưng Ngài Tăng Thống không hay biết gì hết về những chuyện toan tính có kế hoạch để lấy cho bằng được chử ký của Ngài ( QĐ) để cho ông Chánh L đã từng phạm tội Ba la di được giử chức vụ Cố Vấn cao cấp trong Giáo Hội. Cho nên không thể nói những lời trong bức thư nầy của sư Viên Đ là việc chung của Giáo hội. Mà đây là một kế hoạch chung của một nhóm người muốn "bán đứng" Ngài Quảng Độ mà tôi đã có trình bày trong những lá thư trước đây. Như vậy những hành động mà Sư đã tham gia vào việc lũng đoạn Giáo Hội vừa qua có tính cách cá nhân chớ không phải việc chung của Giáo Hội, mặc dù có một nhóm sư tăng phía sau yểm trợ hoặc chỉ đạo cho Sư cũng là việc riêng tư, không quan hệ gì đến việc chung của Giáo Hội.
II. Phần II
A. Trích nguyên văn : "Thời gian qua, dư luận cũng đã phân tích khá tường tận về việc này. Nay chỉ xin trình bày ngắn gọn để xác định những điều chính yếu mà thôi.
Kính thưa Chư tôn đức và Liệt quý vị,
Năm 2003, Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, từ nơi lưu đày ở Quảng ngãi về, Ngài vào chùa Giác Hoa, Sài gòn, ngõ lời muốn tôi ủng hộ Ngài trong việc phục hoạt GHPGVNTN. Sau đó tại Tu Viện Nguyên Thiều, một lần nữa, Ngài chính thức yêu cầu tôi phụ giúp Ngài để củng cố nhân sự GHPGVNTN.
Đức Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang đã dạy rằng: “Trường trại có khi đóng khi mở, Giáo hội thì nay Giáo hội này, mai Giáo hội khác, chỉ có Tổ đình là lâu dài bền vững”. Và Ngài nói tiếp: “Có khi Tổ đình nhờ Giáo hội mà phát triển, có lúc Giáo hội nhờ Tổ đình mới sống còn. Nay Giáo hội gặp hoạn nạn, Tổ đình phải ra tay giúp đỡ, Giáo hội mới mong phục hoạt được”.
Sau đó vài tháng, sáng ngày 17 tháng 6 âm lịch, Hoà thượng Thích Quảng Độ, lúc đó là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, đã ra Tổ đình Thập Tháp, ngõ lời đề nghị tôi tham gia Giáo hội để bổ sung nhân sự trong Viện Hoá Đạo.
Vì lo lắng, đau thương trước hoàn cảnh đất nước, dân tộc và đạo pháp, và luôn ủng hộ lập trường GHPGVNTN, cũng như cảm kích ân tình của nhị vị Hoà thượng, tôi đã bái lãnh, nhận lời, góp sức để tổ chức Đại Hội Bất thường tại Tu Viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định.
Trong Đại Hội Bất Thường, năm 2003 đó, Đức Đệ Tứ Tăng Thống đã ban hành Giáo Chỉ, cử tôi đảm trách chức vụ Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo. Năm 2005, tôi kiêm chức vụ Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo. Năm 2011, Đại Hội Khoáng Đại GHPGVNTN Kỳ IX, khai mạc tại Chùa Giác Hoa, Sài gòn, tôi được suy cử đảm trách chức vụ Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN.
Sau 10 năm tham gia làm việc Giáo hội, giữ các chức vụ Tổng Thư ký, Phó Viện trưởng và sau cùng là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, tôi đã tìm hiểu rất kỹ nội dung Hiến Chương GHPGVNTN, Quy chế Viện Tăng Thống, và Nội quy Viện Hoá Đạo.
Theo Hiến Chương GHPGVNTN, việc bầu chọn nhân sự đảm trách các chức vụ trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo do Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương hội ý với các Ban Đại Diện tỉnh, thành, để suy cử trong một Đại Hội Khoáng Đại thường kỳ hoặc Bất thường của Giáo hội. Viện trưởng Viện Hóa Đạo thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện đệ trình danh sách nhân sự lên Viện Tăng Thống. Sau đó, Đức Tăng Thống sẽ ban hành Giáo Chỉ chuẩn thuận theo danh sách đệ trình.
Trong Giáo hội, Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần. Viện Hóa Đạo mới chỉ đạo Phật sự Giáo hội. Đứng đầu là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, có bổn phận điều hành mọi hoạt động để duy trì, phát triển và chịu trách nhiệm về sự hưng suy, tồn vong của Giáo hội.
Vì vậy, nếu thực hiện đúng theo Hiến Chương GHPGVNTN, Quy Chế Viện Tăng Thống và Nội quy Viện Hóa Đạo, thì tuy Đức Tăng Thống chuẩn y, ban hành, nhưng Ngài không chịu trách nhiệm gì về nội dung các Giáo Chỉ."
**************************
B. Nhận định:
Ý chính của đoạn nầy, Sư muốn nói là:
B1. Điều thứ nhất Sư muốn nói: "Trong Giáo hội, Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần. Viện Hóa Đạo mới chỉ đạo Phật sự Giáo hội. Đứng đầu là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, có bổn phận điều hành mọi hoạt động để duy trì, phát triển và chịu trách nhiệm về sự hưng suy, tồn vong của Giáo hội."
Nhận định: Điều nầy không đúng, nếu Viện Hoá Đạo mới thực sự chỉ đạo Phật sự Giáo Hội, còn Tăng Thống không có thực quyền thì tại sao chánh quyền Cộng Sản Việt Nam bắt giam cầm Ngài Quảng Độ mấy chục năm và Ngài Huyền Quang cho tới chết chỉ vì hai vị Tăng Thống nầy nhất định không giao quyền hành trong Giáo Hội vào tay chánh quyền cộng sản? Trong thời gian hai vị Tăng Thống nầy bị giam cầm và quản thúc thì có bao giờ các sư Viên Đ hay sư Thiện H có bị bắt bớ gì đâu? Tại sao ? đánh cọp hay bắt rắn thì phải nắm ngay đầu chớ có ai ngu mà nhắm ngay đuôi mà tấn công? Nếu Ngài Quảng Độ và Ngài Huyền Quang mà không có quyền hành rộng rãi chỉ đạo Phật sự trong Giáo Hội thì chánh quyền cộng sản ép buộc hai người nầy làm gì để cho bị tai tiếng chà đạp nhân quyền và ngăn cấm tự do tôn giáo ? Sư nghỉ là sư khôn hơn người cộng sản sao? Bất quá Viện Hoá Đạo chỉ là cái bóng của Ngài Quảng Độ thôi. Tại sao? Vì Ngài Quảng Độ có mệnh hệ nào thì cái bóng Viện Hoá Đạo nầy cũng thay đổi như thế đó. Hiện nay trên thế giới các dân biểu, các tôn giáo bạn, dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước , củng như nhiều đại sứ các nước khác ..., ngay cả Tổng Thống Hoa Kỳ người ta cũng chỉ biết có Ngài Quảng Độ là vị Tăng Thống của Giáo hội đang đấu tranh cho tự do tôn giáo và tiếng nói dân chủ nhân quyền , chớ nào ai biết ông nào là Viên Đ hay ông nào là Thiện H gì đâu. Như vậy Sư căn cứ trên lý do gì mà nói Ngài Quảng Độ chỉ lảnh đạo tinh thần cho lấy có, mà không có quyền quyết định những chuyện quan trọng và vận mệnh của Giáo Hội? Điều Sư nói đã sai từ bước căn bản hành chánh rồi, còn nếu xét về luật Phật thì lời nói Sư càng lại quá sai lầm. Vì sao? Vì đây là một tổ chức Phật Giáo, vị thượng thủ phạm hạnh đứng đầu Giáo Hội là người đại diện cho ý Phật, đó là bậc Hoà Thượng hay A Xà Lê. Các Phật tử đều phải cung kính xem như là Phật, thì mới đúng theo tổ chức Phật Giáo. Đây đâu phải là hội người già có đóng tiền niên liễm hay chổ để tận hưởng ngủ dục đâu mà không cho các bậc thượng thủ hay sư trưởng có quyền quyết định. Sư đã hiễu chưa? Thêm một điều nữa là nếu sự hiện diện của Ngài Quảng Độ chỉ có chứng minh thôi, nghĩa là trên phương diện tinh thần cho Giáo Hội, và chỉ có Viện Hoá Đạo chỉ đạo Phật sự Giáo Hội thì Sư cần gì phải dùng hạ sách dở trò giả lập văn thư ban chức Cố Vấn Viện Hoá Đạo cho ông Chánh L có đời sống ô uế và bị toà án phán tội, sau đó Sư lại tự dối mình gạt Ngài Quảng Độ để lấy chử ký vào văn bản ngụy tạo kia. Cũng may Long Thiên theo phò trợ bậc chân tăng làm cho tâm trí Sư u mê, cho nên bị sơ hở lộ ra mưu gian là tự mình ký tên trước, vì muốn tiên hạ thủ vi cường nên vụt tốc bất đạt. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân, do đó Ngài mới bắt được quả tang sư đang dở trò lừa bịp.
1. Nơi đây, đối với luật Phật, Sư phạm ba lỗi lớn khó sám hối:
a. Tội Ba La Di Vọng Ngữ , vì miệng nói khâm tuân cất chức ông Chánh L trước kia, nay tráo trở ngụy tạo văn bản cho giử chức cố vấn.
b. Tội Tăng Tàn, cố ý che dấu tội lỗi của sư phạm giới Ba La Di
c. Phá hoại sự hoà hợp tăng đoàn là sự thanh tu của các đồng môn bằng cách cho sư phạm trọng giới vào tu chung, làm cho mọi tu sĩ trong tăng chúng đều phải bị phạm giới.
2. Còn đối với luật hành chánh thì sư phạm vào điều thứ 20 trong Bản Tu Chính Hiến Chương 12-11-1973. Trong đó Sư chịu trách nhiệm trước mặt Tăng Thống trong sự lỗi lầm dùng nhân sự không cẩn thận, vì Đức Tăng Thống đã tẩn xuất kẽ phạm tội, nhưng Sư lại còn bao che cho tội phạm. Người phạm tội và kẽ bao che đồng cấp tội như nhau. Lại nữa tội dối gạt cấp trên, là Ngài Tăng Thống, để âm mưu lấy chử ký xoá hết tội của sư phạm giới. Khi dư luận nguyền rủa thì lại nhắm vào Ngài Quảng Độ mà đổ cho tội ngu si và mù quáng. Ngài Quảng Độ có thể vì vậy mà đau buồn rồi chết. Như thế Sư giết Ngài một cách không gươm đao mà thành công mỷ mãn. Phải như vậy không?
B2. Điều thứ hai Sư muốn nói: "Tăng Thống chỉ có chuẩn y và ban hành mà không được phép cất chức." Sau đây xét hai điều nầy qua hai khía cạnh Hành Chánh và Luật Phật:
Lý luận nầy không đúng, vì sao?
1. Vì trong suốt Hiến Chương Nội Qui Viện Hoá Đạo nầy củng không có điều khoản nào ngăn cấm không cho Đức Tăng Thống xử dụng quyền ban giáo chỉ để cất chức những tăng phạm giới hay phá hoại chánh pháp.
2. Trong Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, bản tu chính ngày 12-11-1973 có ghi:
2a. "Điều thứ 20: Văn Phòng Viện Hoá Đạo do Viện Trưởng chịu trách nhiệm và vị Tổng Thư Ký Văn Phòng Viện Hoá Đạo điều hành. Văn phòng nầy sẽ từ nhu cầu mà thiết lập các Ban hay Phòng. Mỗi Ban do một Phòng hay do (1) Trưởng ban hay Trưởng Phòng chịu trách nhiệm. Các vị nầy do Viện Trưởng đề cử và được ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo chấp thuận. "
Trong điều 20, tương tự như điều 21 (các vụ đến Tổng Vụ Trưởng và các Tổng Vụ Trưởng đến Viện Hoá Đạo Trưởng), đây là lối phân quyền theo hàng đứng, cấp dưới chịu trách nhiệm đối với cấp trên về mặt Hành Chánh, như Viện Trưởng Trưởng Ban hay Trưởng Phòng chịu trách nhiệm trước Viện Trưởng Viện Hoá Đạo ; Viện Trưởng Viện Hoá Đạo chịu trách nhiệm trước Tăng Thống bởi vì Viện Trưởng Viện Hoá Đạo thua quyền Tăng Thống cũng như Thái Sư thì phải nhỏ hơn Vua.
2b. "Điều thứ 28: Một trong các chức vị thuộc Viện Hoá Đạo có thể bị giãi nhiệm:
- Nếu là chức vị trong Ban Chỉ Đạo (từ Tổng Vụ Trưởng trở lên) thì do Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo trình Hội Đồng Giám Luật xét và trình Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương biểu quyết, đức Tăng Thống duyệt y.
-Nếu là chức vị cấp Miền trở lên thì do Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo đề nghị và Tăng Thống chuẩn y.
- Nếu là các chức vị khác từ cấp Tỉnh thì do Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo quyết định.
- Nếu là các chức vị từ chức Quận trở xuống thì do Ban Đại Diện Tỉnh quyết định"
Đây là nói sự giãi nhiệm theo hàng dọc từ cấp Quận tới Viện Hoá Đạo Trưởng. Theo thứ tự, nếu ở cấp thấp thì cấp trên sẽ quyết định. Đây là trách nhiệm và quyền hạn nữa chiều, từ dưới đi lên là phải theo luật như vậy. Nữa chiều trách nhiệm và quyền hạn từ Tăng Thống đi xuống, thì Ngài có quyền quyết định bổ nhiệm và bải nhiệm vị Viện Trưởng Viện Hoá Đạo vì Viện Trưởng Viện Hoá Đạo chịu trách nhiệm trước vị Tăng Thống và vì không có điều khoản nào ngăn cấm quyền Tăng Thống bải nhiệm cấp dưới. Thí dụ như Ngài Huyền Quang có lần mời Sư vào Viện Hoá Đạo, nếu Sư không làm được việc mà Ngài giao cho, thì Ngài mời Sư ra đi. Làm không được việc chủ giao thì mình đi, trước kia Sư thế nào thì giờ Sư về chổ đó, có gì đâu mà Sư la ó lên muốn chiếm lại hết Giáo Hội của người ta?
Lại nửa hiến chương là do tăng lập, còn kinh điển là do Phật giảng. Hiến chương có thể được tu sửa cho hợp thời, nhưng không thể sửa đổi lời kinh Phật thuyết. Nếu chiếu y theo kinh Phật thuyết thì chẳng những Đức Tăng Thống có thể làm việc cất chức các tăng phá hoại chánh Pháp, mà những người Tu có giới hạnh oai nghi không phạm giới luật đều có thể làm được cả. Điều đó Đức Phật đã nói trong Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Trưởng Thọ như sau:
"Có vị Tỳ Kheo trì giới, oai nghi đầy đủ, hộ trì Chánh Pháp, thấy người phá hoại Chánh Pháp liền xua đuổi, khiển trách, trị phạt. Nên biết, vị Tỳ Kheo ấy được phước vô lượng không thể kể xiết. Nếu vị Tỳ Kheo gọi là tốt mà thấy người phá hoại Chánh Pháp không xua đuổi, khiển trách cử tội thì nên biết đó là kẽ oán cừu trong Phật Pháp"
Đoạn kinh trên cũng có thể tìm thấy trong quyển TRÙNG TRỊ TỲ NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU TẬP 2 QUYỂN THỨ 13, trang 181 do Ngài Trí Húc Đại Sư biên soạn.
Như vậy thì những tăng ở chức vụ cao đang điều khiển Viện Hoá Đạo khi phạm tội nặng như : Dâm giới, sửa đổi giáo chỉ của Đức Tăng Thống, có âm mưu phá hoại giáo hội, và mời thỉnh sư quốc doanh lên Đài truyền hình giảng đạo, cố tình đề cử sư quốc doanh vào giử chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, bị các thành viên trong Viện Hoá Đạo phản đối... khi có những bằng chứng cụ thể về sự phạm tội thì ai là kẽ có trách nhiệm củng như bổn phận xua đuổi và cất chức những tăng phạm giới đó?
Nếu chiếu theo kinh Đại Niết Bàn, về mặt lý thì mọi bậc chân tu có oai đức đều có thể xua đuổi tăng phạm trọng giới kia ra khỏi tăng đoàn , nhưng về mặt sự thì phải có bậc trưởng lão có chức vụ cao hơn, hoặc Đức Tăng Thống ra giáo chỉ. Như vậy nếu Đức Tăng Thống có đủ chứng cớ trọng tội của vị chức sắc trong Viện Hoá Đạo thì Ngài vẫn có thể trực tiếp ban hành giáo chỉ cất chức vị tăng đó mà Ngài cũng không có lỗi lầm gì, vì sao?
1. Ngài làm đúng như kinh Phật thuyết : Y giáo phụng hành
2. Viện Hoá Đạo, xét về cấp bậc thì cao hơn tất cả chúng tăng chỉ thấp hơn Đức Tăng Thống, về mặt sự, một khi Viện Hoá Đạo trưởng phạm tội nặng nếu Đức Tăng Thống không ban giáo chỉ cất chức thì không ai có thể làm được. Cũng ví như trong một quốc gia, tể tướng phạm pháp thì chỉ có vua cất chức được mà thôi.
Như vậy trong giáo chỉ số 10/VTT/GC/TT do Đức Tăng Thống ban hành, ngoài việc có người cho rằng có ngoại nhơn thúc đẩy Ngài Quảng Độ, còn nhửng lời kết tội và chứng cứ mà các thầy Thích V. Đ. thầy Thích C. L.và thầy Thích V. L phạm trong giới là đúng hay sai? Như Giáo chỉ số 10/VTT/GC/TT nói :
"Trong thời gian gần đây, Hòa Thượng Thích Viên Định, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, đã tự ý cùng vài người thân tín quyết định những vấn đề quan trọng của Giáo Hội mà không thông qua Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo cũng như không thỉnh thị ý kiến của Tăng Thống ;
- Hủy bỏ những phiên họp định kỳ, ra những Thông Bạch sai sự thật, vô hiệu hóa Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, là tiếng nói chính thức của Giáo Hội trong Pháp nạn hiện nay ;
- Đã khâm tuân việc tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho vị Tăng phạm trọng giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản, đó là việc xưa nay chưa từng có.
Những sự kiện nêu trên vừa vi phạm Hiến Chương và Truyền Thống của GHPGVNTN, sẽ đưa đến nạn độc tài, phe phái, để khuynh loát Giáo Hội trong hiện tại và tương lai.
Xét rằng tại Hải Ngoại :
- Kể từ khi được bổ nhiệm Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Viên Lý đã đi ngược lại Đường Hướng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, mà cụ thể nhất là việc mời Tu Sĩ thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam lên đài truyền hình IBC của Hòa thượng thuyết giảng, mời tham dự Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và cố tình đề cử Tu Sĩ nầy vào hàng ngũ lãnh đạo của Giáo Hội, nhưng đã bị các thành viên của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo phản đối.
- Hành động trên đây của Hòa Thượng Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo là biểu hiện sự cấu kết với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong chiều hướng hòa hợp, hòa giải với chế độ Cộng Sản hiện nay...."
Theo như Giáo Chỉ số 10/VTT/GC/TT thì các trọng tội trên có chứng cớ rỏ ràng. Có ai trong các thầy đó lên tiếng để hỏi trưng bằng cớ ra chưa? Điều đó chưa hề thấy bên bị tố đòi hỏi trưng chứng cớ ra mà chỉ thấy những lời kể ra công cán vu vơ và buộc tội "ngoại nhân" bâng quơ vô bằng chứng thật là ấu trỉ. Nhưng dù có kể ra có nhiều công cán đi nữa, hoặc tìm được người để đổ được cái chổ tức giận của mình, thì cái lỗi mà mình đã gây tạo trước đó có vơi được gì không? Người có suy nghĩ há chẳng biết đó là chuyện của trẻ con sao? Người tu như vậy thì hằng ngày tâm niệm chuyện gì? Quán tưởng việc chi?
Hơn nữa, theo truyền thống xuất gia tu học Phật Giáo dù là tu theo Tiểu Thừa, Trung Thừa, hay Đại Thừa, vấn đề phạm giới rất quan trọng hơn hết, hiến chương nội qui dù sau cũng là điều thứ, vì sao? vì Phật dạy:" Người tu lấy Giới lảm thầy và Giới Luật còn thì Đạo Phật còn" Trong Di Giáo Tam Kinh , do Ngài Trí Húc Đại Sư thuật, phần Chánh Tông có viết:
"Đức Phật mới bảo các Tỳ Kheo rằng: Nầy các Tỳ Kheo, sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng kính quí Ba La Đề Mộc Xoa, như tối tăm gặp ánh sáng, kẽ nghèo được của báu. Phải biết đó là bậc thầy cùa các vị, ta có ở thế gian cũng không khác như vậy."
Ngài Trí Húc mới luận rằng: "...Khi Phật tại thế, thờ Phật làm thầy, Phật diệt độ rồi, lấy giới lảm thầy, nếu không trì giới nổi, ắt cùng nhà mà như cách vạn dậm, nếu khéo giữ giới, tất trăm kiếp khác gì cùng thời, lời thật đã do kim khẫu nói ra, lẽ nào còn bỏ đây cầu điều gì khác"
Nhìn đó mà biết chấn chỉnh kỷ cương nơi thiền môn, răn đe kỷ luật tăng phạm giới là điều ướt yếu nhất của Giáo Hội và Tăng Đoàn, không có gì hơn nó được. Phật dù còn tại thế, Ngài cũng làm như vậy thôi. Cho nên người tu hành khi phạm trọng giới thì đã mất hết phẫm hạnh người tu rồi. Hơn nữa nếu là tăng đã từng dạy giới và truyền giới cho người khác mà lại phạm giới thì còn phải gương mẫu nhận chịu sai lầm và chấp nhận sự trừng phạt nặng hơn, như thế mới đúng là bậc chơn tăng, cớ sao chẳng những không thẹn thùng xấu hỗ, lại còn cho người lên website dùng xảo ngôn ỷ ngữ bắt lỗi Đức Tăng Thống? Lại nữa, nay nếu chỉ theo quy tắc của hiến chương mà không kễ đến lời Phật dạy thì có khác nào theo nhỏ bỏ lớn, theo cái phụ bỏ cái chánh, theo tăng bỏ Phật thì ắt là kẽ quá si mê, ngưởi có trí ai lại không chê trách?
III. Phần III
A. Trích nguyên văn: "Thời gian gần đây, không hiểu vì lý do gì, đã có một số việc làm của các thành viên trong Viện Hoá Đạo, rất khác lạ, bí mật, bất thường, không đúng nguyên tắc hành chánh, không theo luật lệ, vượt quá quyền hạn và nhiệm vụ, gây tổn hại cho Giáo hội rất nặng nề, như sau:
- Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Tăng sự kết hợp với Cư sĩ Vụ trưởng Gia Đình Phật tử vụ, viết Thỉnh Nguyện Thư, kết tội chư Tăng, cùng ký tên và trình thẳng lên Đức Tăng Thống, không qua ý kiến của Viện trưởng Viện Hoá Đạo cũng như Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.
- Cư sĩ Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ tự nhận đã viết bản Cáo Bạch của Đức Tăng Thống, cử tội chư Tăng về vấn đề giới luật. Việc này, không những làm tổn hại uy tín Viện Tăng Thống, là Viện chỉ có chư Tăng, không có cư sĩ, mà còn vi phạm về quy giới trong đạo Phật.
- Cư sĩ Phát Ngôn Nhân Viện Hóa Đạo bình luận vấn đề giới luật của chư Tăng trên báo đài quốc tế, làm dấy lên phong trào cư sĩ Phật tử bình phẩm giới luật của chư Tăng.
- Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo và Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên viết Thư Chất Vấn Viện trưởng Viện Hoá Đạo về việc nội bộ, đem phổ biến cho dư luận bên ngoài biết nội tình của Giáo hội.
- Cư sĩ Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ viết Bạch thư về việc nội bộ chư Tăng trong Giáo hội, nhất là vấn đề giới luật, phổ biến cho dư luận bên ngoài biết, tạo điều kiện cho các thế lực vô minh có cơ hội huỷ báng chư Tăng và Giáo hội.
- Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, trực thuộc Viện Hóa Đạo, phổ biến những bài viết về việc nội bộ Giáo hội và vấn đề giới luật của chư Tăng, không thông qua Viện Hoá Đạo, làm tổn hại uy tín chư Tăng và Giáo hội. Trái lại, đã không phổ biến những tài liệu của Văn Phòng Viện Hoá Đạo, nhất là bản Huấn Từ quan trọng của Viện trưởng Viện Hoá Đạo gửi Đại Hội Thường Niên GHPGVNTN Hoa Kỳ-Văn Phòng II Viện Hoá Đạo.
***************************
B. Nhận định:
Ông Huynh Trưởng Lê Công Cầu và vị thiện tri thức Quán Như đã từng xác định các cư sĩ đoàn mà Sư nêu lên đó, không phải chỉ là cư sĩ không thôi , mà họ là các Thành Viên của Viện Hoá Đạo , cho nên họ được quyền tham dự việc Giáo Hội như là mọi thành viên khác ( nhìn danh sách bổ nhiệm vào Giáo Hội thì biết). Đây là chổ mờ mịt mà Sư không thấy rỏ bấy lâu nay, nên cứ mãi tìm biết bao kế sách để buộc tội cho họ, rồi tốn công vô ích. Sư là kẽ dùng viện luật mà thật mơ màng, không thông suốt được Hiến Chương chút nào! Nhưng trong bài viết nầy, chỉ đề cập về vai trò cư sĩ thuần tuý trong đạo Phật từ xưa nay vì vai trò của cư sĩ rất quan trọng, luôn luôn sát cánh với Giáo Hội nguyên thuỷ và các Tăng đoàn , cũng như trong các chùa chiền trải qua nhiều thế kỷ từ lúc Đức Phật khai sinh ra Phật Giáo 600 năm trước Tây lịch cho đến hôm nay.
Trước khi nói về vấn đề các Tổng Vụ Trưởng kết hợp với các Cư Sĩ Vụ viết thỉnh nguyện thư kết tội Chư Tăng, Sư hảy nhìn xem lý do mà Ngài Quảng Độ cách chức Sư và sư Viên L là đúng hay là sai? Hảy nhìn xem những hành động của Sư như:
"Trong thời gian gần đây, Hòa Thượng Thích Viên Định, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, đã tự ý cùng vài người thân tín quyết định những vấn đề quan trọng của Giáo Hội mà không thông qua Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo cũng như không thỉnh thị ý kiến của Tăng Thống ;
- Hủy bỏ những phiên họp định kỳ, ra những Thông Bạch sai sự thật, vô hiệu hóa Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, là tiếng nói chính thức của Giáo Hội trong Pháp nạn hiện nay ;
- Đã khâm tuân việc tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho vị Tăng phạm trọng giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản, đó là việc xưa nay chưa từng có." (từ Giáo Chỉ 10)
Lý do trên, đúng hay sai? Điều mà Sư làm quá bất lợi cho Giáo Hội là đúng hay sai? Sư làm những chuyện trịch thượng như vậy thì có Tổng Vụ Trưởng hay Cư Sĩ vụ nào dám đưa thỉnh nguyện thư cho Sư xem. Dĩ nhiên thượng bất minh thì hạ tắc loạn. Chử "loạn" đây là nói về thủ tục hành chánh không thể đi đúng thứ tự nữa vì có người ngăn chận và phá huỷ. Vậy lỗi đó đâu phải do nhóm Cư Sĩ Vụ hay Tổng Vụ Trưởng gây ra đâu, mà là Sư là kẽ tạo ra trước và có trách nhiệm cho sự rối loạn nầy vậy. Tại sao các Cư Sĩ Vụ hay Tổng Trưởng Vụ không tố cáo HT Như Đ hay HT G. Đẳng mà lại tố cáo Sư. Nếu Sư bị oan ức tại sao không nêu lý do, mà lại kéo hết cả nhóm ra khỏi Giáo Hội. Cả bọn khoanh tay đứng nhìn Giáo Hội Mẹ bị bọn công an đánh tưng bừng hoa lá, làm cho hết hồn hết vía người tu hành vô tội? Bọn côn đồ phá phách, bắt bớ, hăm doạ người tu hành trong khi họ làm lễ ra mắt ban tân lảnh đạo của Giáo Hội , mà lấy làm thoả thích, không can thiệp một lời, bây giờ nhắm không làm gì được nữa nên mới lên tiếng để thanh minh thanh nga cho người ta "thông cảm"? Tội của Sư lớn lắm đấy, tướng tội nếu có, sợ thế gian nầy không chổ chứa.
Cũng như nước chảy thành dòng khi gặp vật chận thì nó chảy theo đường vòng. Ở trong gia đình, cha mẹ ỷ mình sức mạnh bắt nạt con cái thì chúng phải dấu diếm. Trường hợp vậy thì đâu thể đỗ lỗi cho con cái mình. Các Tổng Vụ Trưởng, các Cư Sĩ Vụ thường ngày kính sợ mấy ông sư như ông bà nội thiếu điều bỏ hết chuyện tư gia mà đến lo cho Chùa Chiền chớ có dám đâu tự ý sinh sự với chư tăng, nhưng vì Sư đây chuyên quyền cấu kết ngoại nhân, bao che dung dưởng cho hạng ma tăng phá đạo, thì tự nhiên lực lượng cứu nguy cư sĩ vùng dậy mà bảo vệ cho Ngài Quảng Độ, chẳng lẽ đó là điều sai quấy. Ngộ biến tùng quyền, tức nước vở bờ, đó cảnh giới Vô Ngôn mà Sư nào hiểu được? Như vậy biết tâm không trụ tức là tu hành. Cứu người hơn cứu hoả . Trong quyển Nguồn Thiền Dẫn Giải, có người hỏi tổ Khuê Phong Tông Mật phương pháp tu hành, Ngài nói : "Chỉ tuỳ việc đương thời, ứng hợp cơ đương thời đâu có Pháp nhất định tên A Nậu Bồ Đề, đâu có hạnh nhất định tên Ma Ha Bát Nhã, chỉ cốt tình , không khởi nghĩ, ý không suy tính, tâm không phát sanh , huệ không chổ trụ, tức là chơn tánh, chơn giải, chơn tu, chơn chứng" Phật dạy quên thân bỏ ngã, chủ yếu là chổ không chấp tướng mà không phạm giới, chứ Ngài đâu có dạy tự sát bao giờ. Gặp người muốn hại mình thì mình phải dùng phương tiện tự vệ, rồi sau đó mới ra đến pháp luật để phân biệt trắng đen phải trái; còn nếu như để cho chúng giết mất rồi thì phải trái biết nói cùng ai? Nếu Sư không làm gì sai lầm thì có cư sĩ nào dám đốt giai đoạn tiến hành thủ tục cho thỉnh nguyện thư. Nhưng vì Viện Hoá Đạo Trưởng cố ý đi ngược bản Hiến Chương coi thường Tăng Bộ và Hành Chánh nên Cư Sĩ mới làm liều. Xem một đoạn trong Bạch Thư của ông Huynh Trưởng Lê Công Cầu thì rỏ:
"....3/. Quan Điểm của Hòa Thượng Thích Viên Định, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo :
- Trên thực tế, tôi (Lê Công Cầu) chẳng quan tâm đến vụ án Thầy Chánh Lạc vì tôi nghĩ đây là việc của chư Tăng, hàng Cư sĩ không nên xen vào.
Nhưng tối 30.5 âm lịch Quí Tỵ (07.7.2013) Hòa Thượng Thích Không Tánh nhân chuyến ra dự lễ Khánh Thành Chùa Phước Thành của Hòa Thượng Thích Chí Thắng, Ngài ghé thăm tôi và cho tôi biết rằng Hòa Thượng Viện Trưởng nhờ Ngài ra vận động Quí Ôn Quí Thầy ở Miền Trung lưu giữ Hòa Thượng Chánh Lạc lại với Giáo Hội. Theo Ngài thì Hòa Thượng Chánh Lạc là người có công với Giáo Hội, đã yểm trợ Giáo Hội về vật chất lẫn tinh thần, nhất là chống Cọng tích cực, khi cần thì Hòa Thượng chỉ hô một tiếng là có bốn, năm trăm người đi biểu tình liền. Còn việc Ngài tạo nghiệp thì Ngài trả nghiệp chứ có liên quan gì đến Giáo Hội đâu mà cho Ngài nghỉ việc ?
- Chiều mồng 2.6 âm lịch tôi đến Tu Viện Nguyên Thiều (Bình Định) để chuẩn bị tham dự húy nhật Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang. Tôi vào gặp Hòa Thượng Viện Trưởng và xin Ngài cho biết là có nhờ Hòa Thượng Không Tánh đi vận động như vậy không. Ngài cười và nói là Hòa Thượng Không Tánh đã làm sai ý tôi rồi, tôi chỉ xin ý kiến Quí Ôn, Quí Thầy là nên để Hòa Thượng Chánh Lạc nghỉ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành VPII, đưa Hòa Thượng lên làm Cố vấn mà thôi. Với chức vụ nầy Hòa Thượng Chánh Lạc chỉ ngồi chơi xơi nước, mình khỏi mất người, khỏi bị tay chân Hòa Thượng đánh phá, nhưng không biết Ông Cụ (tức Đức Tăng Thống) có chấp nhận không đây.
Trong nhiều lần Đức Tăng Thống có nói cho tôi biết trăn trở của Ngài về vụ Hòa Thượng Chánh Lạc, nhưng lúc đó tôi chưa nghiên cứu kỹ vấn đề nên tôi đã khen giải pháp có lý của Hòa Thượng Viện Trưởng.
- Vừa về đến Huế thì Đại Lão Hòa Thượng Thích Như Đạt, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự gọi tôi ra chùa Long Quang gấp, vừa đến nơi Ngài đã mắng tôi một trận xối xả, Ngài nói : “Vừa qua tại Thập Tháp, thầy đã làm thinh không nói, vì nói có nơi có chốn đâu phải nói khơi khơi được. Cậu khen giải pháp của Ngài Viện Trưởng hay thì đây, toàn bộ hồ sơ của Ông Chánh Lạc đây, Viện Tăng Thống có thì Tổng Vụ Tăng Sự cũng có, cậu vừa hiểu luật Đạo cũng như luật Đời, cậu tham khảo rồi cho thầy biết kết luận”.
- Trong khi đó Đức Tăng Thống cũng gọi điện cho tôi biết là Hòa Thượng Viện Trưởng muốn ra Quyết Định đưa Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên ngôi vị Cố Vấn Văn phòng II nhưng Ngài không chấp nhận.
4/. Tổng Vụ Tăng Sự vào cuộc : THỈNH NGUYỆN THƯ ra đời :
- Phụng hành công việc của Ngài Tăng Sự giao phó, tôi đã nghiên cứu rất kỹ vấn đề Hòa Thượng Chánh Lạc. Đồng thời tham khảo ý kiến một số Huynh Trưởng cựu trào từng gần gũi Hòa Thượng Chánh Lạc tại Hoa Kỳ, khiến tôi đưa tới kết luận trình Ngài Tăng Sự, là Viện Hóa Đạo đã nhầm rồi : Hòa Thượng Chánh Lạc, Chủ Tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo là một vị Tăng phạm giới, mà Tăng phạm giới thì phải y luật xử trị, và y luật xử trị thuộc thẩm quyền của Viện Tăng Thống qua sự kiểm tra và đệ trình của Tăng Bộ, căn cứ vào Điều Thứ 5, Chương Hai của Hiến Chương GHPGVNTN.
Đây không phải là việc thay đổi nhân sự của Văn phòng II nên không thuộc thẩm quyền của Viện Hóa Đạo, do đó Hòa Thượng Viện Trưởng không thể ra Quyết Định đưa Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên làm Cố Vấn được. Chỉ khi nào Hòa Thượng Chánh Lạc bị tẫn xuất khỏi chức vụ Chủ tịch khi ấy mới cử vị khác thay thế, cho nên việc thay đổi nhân sự chỉ là việc thứ yếu.
- Sau đó Đức Tăng Thống điện ra thăm, tôi cũng trình bày như vậy. Ngài nói : “Tôi biết chứ, nhưng Hòa Thượng Viện Trưởng cứ muốn ra Quyết Định cử hai Ông ấy lên làm Cố Vấn, Hòa Thượng Viên Lý điện về cũng nói như vậy. Tôi mà không giải quyết vụ Chánh Lạc thì sau nầy không ai giải quyết được đâu, tôi nằm xuống Chánh Lạc sẽ tác oai tác quái, Giáo Hội sẽ tan nát hết. Vậy ý kiến Tăng Bộ ra làm sao ? Vì trong Hiến Chương qui định ở Điều 8 Chương Thứ Hai là việc “y luật xử trị” phải có báo cáo của Tăng Bộ”.
- Tôi đến trình bày với Ngài Tăng Sự, thì Ngài biểu tôi mời Hòa Thượng Thanh Quang Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo ở Đà Nẵng ra cho Ngài dạy việc. Theo Ngài thì Tăng Sự lo về giới luật nhưng Tổng Thư Ký thì lo về hành chánh nên phải kết hợp để có quyết định chung.
BA LẦN THỈNH NGUYỆN :
*** Thỉnh nguyện lần thứ nhất :
-Ngày 19.7.2013, để tránh sự dòm ngó của công an, 3g sáng Hòa Thượng Thanh Quang ra Huế. Khi hai Ngài gặp nhau, tôi trình bày sự việc xong, hai Ngài quyết định ngày 23.7.2013 vào diện kiến Đức Tăng Thống để xin Đức Tăng Thống giải quyết vấn đề Hòa Thượng Chánh Lạc theo thẩm quyền của Viện Tăng Thống.
- Trong cuộc diện kiến nầy, Đức Tăng Thống đã hứa khả là sẽ ngưng mọi chức vụ của Hòa Thượng Chánh Lạc trong Giáo Hội nhưng chỉ thực hiện bằng Quyết Định chứ không đáng để phải ra Giáo Chỉ, hai Hòa Thượng hoan hỷ ra về.
*** Thỉnh nguyện lần thứ hai
- Trong lúc đó tôi nhận được thư của Hòa Thượng Viện Trưởng nhờ tôi thỉnh mời Quí Ngài vào Giác Hoa ngày 22 hoặc 23 tháng 7 năm 2013 để bàn việc Hòa Thượng Chánh Lạc, sau đó sẽ đúc kết ý kiến trình lên Đức Tăng Thống. Tôi thưa lại là mời những Ngài nào, Hòa Thượng Viện Trưởng nói là chỉ mời Ngài Thiện Hạnh, Ngài Như Đạt, Ngài Thanh Quang và tôi thôi. Tôi đã in thư nầy gởi trình Quí Ngài.
- Hai ngày sau tôi lại nhận được thư của Hòa Thượng Viện Trưởng, trong thư Hòa Thượng nói là thôi đừng thỉnh mời nữa mà Quí Ôn đi vất vả, ai có ý kiến chi thì cứ trình lên Đức Tăng Thống để Ngài định liệu.
- Nhưng ngay tối hôm đó, Thượng Tọa Viên Hỷ điện thoại cho tôi bảo rằng đừng thỉnh ý Quí Ôn nữa, công việc giải quyết xong rồi, Hòa Thượng Viện Trưởng sẽ ra Quyết Định thỉnh Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên làm Cố Vấn.
- Tôi trình bày sự việc lại cho Quí Ngài biết. Ngài Tăng Sự và Ngài Tổng Thư Ký rất ngạc nhiên về sự quyết định nầy.
- Nhận thấy có những hiện tượng quá bất thường và bất nhất xảy ra chỉ trong vòng mấy ngày, nên quí Ngài đã nhất trí viết Thỉnh Nguyện Thư dâng lên Đức Tăng Thống và Ngài Viện Trưởng. Nội dung Thỉnh Nguyện Thư thỉnh cầu Đức Tăng Thống y luật xử trị Hòa Thượng Chánh Lạc như Ngài đã hứa khả chứ không thể để Hòa Thượng Viện Trưởng ra Quyết Định thỉnh mời để bao che Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên làm Cố Vấn được vì điều nầy trái với Hiến Chương GHPGVNTN.
- Sáng ngày 12.8.2013 Nhị vị Hòa Thượng vào Sai Gòn dâng Thỉnh Nguyện Thư. Hai Ngài đến Giác Hoa mời Hòa Thượng Viện Trưởng cùng đi để cùng mặt cùng lời trình lên Đức Tăng Thống nhưng Hòa Thượng Viện Trưởng hẹn buổi chiều. Đến chiều thì Hòa Thượng Viện Trưởng từ chối không đi, nên hai Ngài đi với Thượng Tọa Viên Hỷ qua Thanh Minh Thiền Viện. Khi dâng Thỉnh Nguyện Thư, Thượng Tọa Viên Hỷ đọc cho Đức Tăng Thống nghe, Ngài bảo để lại một bản cho Ngài nghiên cứu, một bản đem về trình Hòa Thượng Viện Trưởng và một bản Tăng Sự lưu.
Lúc 3g30 chiều nhị vị Hòa Thượng về lại Giác Hoa, chưa trình bày gì thì bị Hòa Thượng Viện Trưởng nói năng nặng lời nên hai Ngài bỏ ra về..."
Lại còn có những lần Sư ỷ mình là Viện Trưởng không tôn trọng ý kiến của các tăng sư từ xa về lễ hội, như một đoạn trong bài viết của một Phật Tử hộ pháp Hương Trần như sau:
"...1_ Hòa Thượng cho rằng việc Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự kết hợp với Cư Sĩ Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử Vụ viết thỉnh nguyện thư kết tội chư Tăng và trình thẳng lên Ngài Tăng Thống, không qua ý kiến của Viện Trưởng Viện Hóa Đạo cũng như Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống. Xin hỏi Hòa Thượng những lần Hòa Thượng có những hành vi phá hoại sinh hoạt thường sự của GHPGVNTN và coi thường các Vị Tăng trong GHPGVNTN từ xa về dự lễ, hội, Những lúc đó các vị ấy đã lên tiếng và muốn được nghe lời giải bày và xin ý kiến của Hòa Thượng nhưng đều bị gạt phăng ra, không xem lời của họ nói ra gì mà cứ tiếp tục theo đường lối của Hòa Thượng mà làm. Trước tình hình nghiêm trọng như vậy thì Hòa Thượng cho rằng Tổng Vụ Trưỡng Tổng Vụ Tăng Sự, Cư Sĩ Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử vụ phải tìm đến ai để trình bày sự việc có chiều hướng phá hoại đường lối sinh hoạt của GHPGVNTN? Nếu nói là phải thông qua Viện trưởng VHĐ và Chánh Thư Ký VTT thì thử hỏi qúy thầy có công chính liêm minh để xử lý tội trạng của mình và những người cùng đồng phe phái với mình không? Nếu là không và biết trước là những thư từ hoặc thỉnh nguyện thư đó sẽ bị nhím chìm ngay trên tay của Viện trưởng VHĐ và Chánh Thư Ký VTT thì có cần phải thông qua hay không?...."
Đó, có phải là mình gây sự trước không? cho nên đừng bảo sự gây! Trách mình trước, rồi mới nói người sau. Thế mới đúng người công chính. Hơn nữa, cư sĩ là một lực lượng tiền phong mạnh mẽ sát cánh hộ pháp chư Tăng cùng Giáo hội, Sư đâu thể khinh thường được. Kinh sách còn ghi lại biết bao nhiêu vị cư sĩ giúp cho Phật và chư Tăng hoằng dương đạo pháp cũng như chiến đấu với ác vương mà bảo vệ chánh pháp. Từ thuở xa xưa lúc Phật còn hiện tiền thì có quốc Vương Ba Tư Nặc, Vua A Xà Thế, vua Bình Sa Vương , sau 100 năm Phật nhập Niết Bàn thì có vua A Dục và những vị quốc vương sau nầy tiếp tục hộ pháp qua nhiều triều đại. Ngài Duy Ma Cật khai diễn ý nghĩa Niết Bàn qua kinh Bất Nhị; nhờ Hiền Hộ trưởng giả mới có kinh Bát Chu Tam Muội, cũng nhờ thái hậu Vi Đề Hy mà có kinh Thập Lục Quán, hay nhờ hoàng hậu Thắng Man nên mới có kinh Thắng Man .... Trong Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Bình Đẳng Tánh Giác có ghi: Trong nhóm Ngài Hiền Hộ còn có 15 vị Chánh Sĩ tức là Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Thiện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát , Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát , Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát , Tịch Căn Bồ Tát , Tín Huệ Bồ Tát , Nguyện Huệ Bồ Tát , Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ tát , Chế Hạnh Bồ Tát , Giải Thoát Bồ Tát làm thượng thủ." Đây là những người Cư Sĩ tại gia mà sư thường đảnh lể mổi lần thắp nhang trên bàn Phật, Sư có nhớ không? Là do câu " Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát". Họ là những Đại Sĩ, nghĩa là bậc Đẳng Giác, bên ngoài hiện tướng phàm phu , nhưng bên trong thâm đạt chánh đạo, sống tại gia nên gọi là Chánh Sĩ. Vậy tu sĩ đảnh lễ cư sĩ hằng ngày mà tự không biết thôi. Thế thế mới gọi là Đại Thừa Vô lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác. Chổ nầy muốn nói người tu hành lấy đạo pháp làm trọng, lấy giới hạnh làm Thầy, lấy Pháp làm hướng đi thì tự nhiên thuận với Tứ Y Pháp:
Y nghĩa bất Y ngử
Y Pháp bất Y nhân
Y Kinh Liễu Nghĩa bất y Kinh Bất Liễu Nghĩa
Y trí bất y thức
Có được như vậy thì mới không thấy có sự giai cấp khác biệt giữa Tu Sĩ và Cư Sĩ. Cốt lỏi của sự tu hành chính là nghiêm trì giới luật, đức trọng quỷ thần kinh. Không nên câu nệ giai cấp, việc làm giữa Tu Sĩ và Cư Sĩ mà sa vào lưới mê. Do đó cố chấp kinh điển mà không hiểu nghĩa thì hoá ra phỉ báng lại lời Phật dạy, đó chính là ma thuyết. Vì sao? Là vì ôm học kinh điển đến đau đầu loạn tưởng mà không đem ý Phật dạy trong Kinh ra áp dụng tu hành, lại còn cóp nhóp năm ba chử , tự ý tán bàn cho sai lạc lời Phật dạy, nạn lỗi người chân đức cho nên gọi là hạng cuồng huệ. Người tu hành chân chính chỉ ngán sợ tội lổi, ngoài ra không còn gì để sợ. Cư sĩ càng phê phán, mình càng bị chỉ trích thì càng mau thành tựu trên con đường Phật Đạo, như trong kinh Kim Cang, Bài thứ bảy - Thọ Trì Công Đức, Phật dạy ông Tu Bồ Đề :
" Tu Bồ Đề ! Nếu người thọ trì đọc tụng kinh nầy, mà bị người khinh khi, thì người nầy do tội chướng đời trước rất nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ đọa vào ác đạo; nhưng nay chỉ bị người khinh khi, những tội chướng đời trước được tiêu diệt và họ mau đặng đạo quả Bồ Đề"
Cho nên người xưa mới nói : muốn trách người trước tự xét mình. Trong Cổ Học Tinh Hoa còn ghi lại một câu chuyện Giận Chó: "Một hôm Dương Bố đi dạo, lúc ở nhà ra, Dương Bố mặc một chiếc áo màu trắng. Đi nửa đường gặp mưa to, nên Dương Bố phải ghé vào nhà người bạn tránh mưa. Người bạn mang một chiếc áo màu đen ra cho Dương Bố mượn. Khi tạnh mưa, Dương Bố vẫn mang chiếc áo đen về nhà . Vừa vào tới ngõ, con chó trông thấy vội sủa ầm lên. Dương Bố tức giận toan đánh con chó. Người anh là Dương Chu mới chạy ra bảo:
- Em đừng đánh nó. Nó sủa như thế là phải . Giả sử con chó trắng nhà ta ra đi một lúc trở về thì đen, phỏng chú có xem chuyện đó là thường không? "
Trong quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do Ngài Thích Thiện Hoa biên soạn có ghi lại 34 di ảnh và tiểu sử của Chư thánh Tử Đạo, bao gồm bốn chúng: Tăng, Ni, Ưu Bà tắc, Ưu Bà Di, đứng đầu là Ngài Thích Quảng Đức , trong đó đã có tới 14 vị là cư sĩ tại gia như sau:
1. Bồ tát Thích Quảng Đức (tự thiêu ngày 11-6-1963, 67 tuổi)
2. Đại Đức Thích Nguyên Hương (tự thiêu ngày 4-8-1963, 28 tuổi)
3. Đại Đức Thích Thanh Tuệ ( tự thiêu ngày 12-8-1963, 18 tuổi)
4. Ni Cô Thích Nữ Diệu Quang ( tự thiêu ngày 15-8-1963, 27 tuổi)
5. Thượng Tọa Thích Tiêu Diêu ( tự thiêu ngày 16-8- 1963, 71 tuổi)
6. Phật Tử Hồng Thể (thương phế binh) ( tự thiêu ngày 28-9-1963, 81 tuổi)
7. Đại Đức Thích Quảng Hương (Tự thiêu ngày 5-10-1963, 37 tuổi , ngồi kiết già)
8. Đại Đức Thích Thiện Mỹ (tự thiêu ngày 27-10-63)
9. Đại Đức Thích Huệ Hồng (tự thiêu , 1966)
10. Phật Tử Nguyễn Thị Vân (tự thiêu ngày 12-4-Bính Ngọ, 17 tuổi)
11. Đại Đức Thích Thiện Huệ (tự thiêu ngày 1-6-1966, 18 tuổi)
12. Ni Cô Thích Nữ Diệu Trí ( tự thiêu ngày 4-6-1966, 27 tuổi)
13. Ni Sư Thích Nữ Thanh Quang (tự thiêu ngày 26-5-1966)
14. Nữ Phật Tử Đào Thị Yến Phi (tự thiêu ngày 26-1-1965, 17 tuổi)
15. Nữ sinh Phật Tử Nguyễn Thị Huệ (tự thiêu ngày 30-8-1966, 17 tuổi)
16. Nữ Phật Tử Đào Thị Tuyết (tự thiêu ngày 17-6-1966, 17 tuổi)
17. Ni cô Thích Nữ Trí Túc ( bảo vệ Hiến Chương PG) ( tự thiêu ngày 3-10-1967 , 81 tuổi)
18. Ni cô Thích Nữ Trí Chơn (bảo vệ Hiến Chương PG) (tự thiêu ngày 8-10-1967, 54 tuổi)
19. Ni cô Thích Nữ Huệ Lạc (bảo vệ Hiến Chương PG) ( tự thiêu ngày 22-10-1967, 22 tuổi)
20. Đại Đức Thích Hạnh Đức (bảo vệ Hiến Chương PG) ( tự thiêu ngày 31-10-1967, 19 tuổi)
21. Ni cô Thích Nữ Thông Huệ (bảo vệ Hiến Chương PG) (tự thiêu ngày 1-11-1967, 80 tuổi)
22. Nữ Phật Tử Nhất Chi Mai (cầu hoà bình VN) (tự thiêu ngày 16-5-1967, 33 tuổi)
23. Thượng Toạ Thích Thiện Lai (cầu hoà bình VN) ( tự thiêu ngày 11-61970, 74 tuổi)
24. Ni cô Khất Sĩ Liên Tập (cầu hoà bình VN) (tự thiêu ngày 4-6-1970, 24 tuổi)
25. Nữ sinh Phật Tử Quách Thị Trang (bị thảm sát ngày 25-8-1963, 15 tuổi)
26. Phật Tử Phan Văn Hoà (thảm sát, 18 tuổi)
27 Phật Tử Nguyễn Văn Phát (thảm sát, 27 tuổi)
28. Phật tử Thiện Chí Huỳnh Văn Thiện (bị thảm sát ngày 16-6-1966, 18 tuổi)
29. Đại Đức Thích Thiện Ân (bị thảm sát ngày 3-6-1970, 21 tuổi)
30. Huynh Trưởng Quang Duy Trinh (bị thảm sát ngày 18-4-Ất Tị, 40 tuổi)
31. Huynh Trưởng Nguyễn Đại Thức (bị thảm sát ngày 27-3-1966, 37 tuổi)
32. Phật Tử Lê Thị Vân (tự thiêu ngày 12 tháng 4 năm?, 17 tuổi)
33. Phật Tử Đào thị Tuyết ( tự thiêu ngày 17-6-1966, 17 tuổi)
34. Đạo Hữu Lê Văn Mỹ (tự thiêu ngày 17-11-1969, 67 tuổi)
Con số 14 vị cư sĩ trong 34 Tứ chúng quả là con số vượt trội nhân sự, cho nên vì lý do đó mà lực lượng cư sĩ được xem như là thành phần nòng cốt bảo vệ và chấn hưng Giáo Hội PGVNTN cho tới ngày hôm nay. Sư xem thấy như vậy mà biết rằng các cư sĩ thành viên trong Giáo Hội không phải tầm thường như Sư đã nghĩ đâu. Trong thời gian pháp nạn, hiện biết là có 34 người vị pháp vong thân, còn số chưa biết mà hy sinh thì cũng còn rất nhiều. Họ vì ai mà làm ? cũng chỉ vì muốn bảo vệ Đạo Pháp, Hiến chương , Hoà bình mà phải hy sinh tánh mạng. Như thế thì biết Giáo hội đã phải đổ xuống biết bao xương máu mới được gầy dựng. Hôm nay vì cớ chi mà Sư lại muốn "Xoá Hết Làm Lại" ? Há chẳng phải là Sư muốn phá huỷ hết công sức khó nhọc của tiền nhân? Đó chẳng phải là một lỗi lầm quá to lớn trước linh giác của "thánh tử đạo" và Chư Lịch Đại Tổ Sư sao? Nay trở lại vấn đề mà Sư bắt lỗi các Cư Sĩ trong GHPGVNTN về chuyện thỉnh nguyện thư. Sư cứ suy nghĩ đi, lý do gì mà các cư sĩ kia soạn ra thỉnh nguyện thư? Nếu không có thư thỉnh nguyện đó, có lẽ bây giờ sư Viên L , Sư Thiện H , ông Chánh L, và bản thân Sư đang sung sướng vì được toại nguyện , trong khi Ngài Quảng Độ, sau khi ký tên vào văn bản do Sư soạn trước, thì đau khổ chết đứng chết ngồi! Đúng là cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán. Thật uổng phí Ngài Huyền Quang mang Sư vào Viện Hoá Đạo, giờ đây Sư làm cho Giáo Hội của Ngài Huyền Quang muốn chìm luôn. Trong Kinh Đại Niết Bàn, từ lúc xa xưa , Đức Phật đã cho phép Tứ chúng chất vấn, hỏi tội , trừng trị những Tăng sư phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp mà không có tội lỗi gì cả, vì những tăng sư đó là thế lực của Ma Vương chớ chẳng phải những kẽ tu hành chân chính. Hảy xem một đoạn Kinh Văn trong kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Trường Thọ, Đức Phật nói với Ngài Ca Diếp Bồ Tát rằng:
"... Nếu người (Tỳ kheo và Tỳ Kheo Ni) nào không tu học ba phẫm Pháp nầy ( Giới, Định, Huệ) lười biếng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp, thời vua , quan, 4 bộ chúng phải nên nghiêm trị.
-Nầy Ca Diếp! như vậy các vua , quan, 4 bộ chúng có mắc tội chăng?
Ca Diếp Bồ Tát thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, Không!
Phật nói:
- Các vua , quan , và 4 bộ chúng ấy còn không có tội, huống là Như Lai."
Đó là lời Phật thuyết, trừng trị tăng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp là bổn phận của người con Phật. Như trên kia đã kể, Sư phạm vào ba tội lớn, nay cộng thêm một:
1. Ba La Di Vọng ngữ
2. Che dấu bênh vực cho sư phạm tội Ba la di nên phạm tội Tăng Tàn
3. Không tuân lời Phật, mang kẽ phạm tội tu chung trong Giáo Hội làm các tu sĩ vô tội phải mang lấy tội.
4. Chẳng những vậy mà còn muốn làm cho Ngài Quảng Độ mang lấy nhục vào thân , tức đi mà chết. Tức là Sư không kễ bậc Tăng Thống hay A Xà Lê là bậc Hoà Thượng của mình, muốn họ chết đi cho rảnh mắt.
Bốn điều lỗi phạm trên đủ cho bốn Bộ Chúng lên án, trừng trị rồi. Có gì đâu mà oan ức? Vậy từ nay Sư đừng khinh thường Cư sĩ nữa vì họ là sức mạnh của Sư vậy. Phải cần nên thương yêu Cư Sĩ như em như con thật sự, thì Cư sĩ sẽ yêu mến Sư như cha mẹ. Lý ở đời là thế. Còn ngược lại nếu Sư xem cư sĩ như oán cừu thì họ sẽ bỏ Sư bơ vơ, thí dụ như Sư có bị bọn công an giam bắt hay chùa Giác Hoa bị trưng thu thì ai là người lên tiếng trong Hội Nhân quyền để can thiệp cho Sư? Cũng may mắn cho Sư là Ngài Quảng Độ còn an bình, bằng như có chuyện không may đã xảy ra cho Ngài Quảng Độ, thì Sư với những ai là đồng bọn chỉ có nước chun tuốt xuống Địa Ngục mà đền tội.
I. Phần I
A. Trích nguyên văn:
"ĐÔI LỜI TỰ BẠCH
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
- Kính bạch Giác linh Đức Đệ Tứ Tăng Thống,
- Kính bạch Đức Đệ Ngũ Tăng Thống,
- Kính bạch Chư tôn đức Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN,...
- Kính bạch Quý Giáo hội, Quý Ban Đại Diện các cấp trong và ngoài nước,
- Kính bạch Chư tôn đức Tổ Đình Thập Tháp,
- Kính thưa Quý Thiện hữu tri thức, Cư sĩ và đồng bào Phật tử.
Kính bạch Chư tôn đức và thưa Quý liệt vị,
Chư Tổ dạy rằng, văn tự ngữ ngôn còn trong vòng đối đãi, dễ gây tranh cãi, hơn thua. Chỉ có vô ngôn, im lặng mới không còn thị phi, bỉ thử. Nhưng vì những nghi ngờ, hoang mang trong chư Tăng và Phật tử về biến động GHPGVNTN thời gian qua, nên cần có vài lời để làm sáng tỏ. Vấn đề này không đơn thuần là việc cá nhân mà là việc chung của Giáo hội."
B. Nhận định :
1. Có phải là Vô Ngôn?: Người tu hành tâm ý phải rỏ ràng. Hể ý muốn không thì miệng phải nói không theo; chớ không phải ý thì không muốn nói, mà cái miệng nhịn không nổi rốt cuộc lại buông tiếng. Như vậy có khác gì người thế gian, cũng bình thường như mọi người thôi, đâu có khác gì ai. Hảy nhìn Ngài Huyền Quang hay Ngài Quảng Độ thì biết một lời nói ra , hể một là một, hai là hai , không hề đổi ý trước bất cứ một áp lực nào, thế mới đúng là bậc chân nhân xuất thế. Nhìn lại Sư, ý muốn ở một nơi mà khẫu khí nghiêng qua một ngả. Sư nói quí mến im lặng sao bây giờ lại mở miệng, há không phải tự mình nhịn không nổi việc thị phi rồi. Vậy tiếng Vô Ngôn lại được hiểu ra như là sự im lặng, thì người câm cũng có được Vô Ngôn? như vậy thì Vô Niệm là không suy nghỉ chớ gì? Vậy một cụ già bị bịnh lãng trí ở viện dưỡng lão cũng thành tựu được vô niệm rồi ? Như vậy tu chi cho cực khổ, chỉ cần câm lặng thì được Vô Ngôn; lãng trí thì được Vô Niệm. Đạo Phật đâu quá thấp hèn như thế được. Vả lại Vô Ngôn đâu phải là "vô lời" đâu mà nói rằng im lặng. Vô Niệm đâu phải là không còn phân biệt được đúng hay sai. Sư có nghe đức Phật từng nói rằng: trong 49 năm chuyển pháp luân, Ngài chưa hề nói một câu nào? Nếu Phật không nói thì Kinh từ đâu ra? Như vậy cái mà Sư nói "chỉ có vô ngôn hay im lặng mới không còn thị phi, bỉ thử" đó, đâu thể áp dụng cho người mù mịt như Sư được. Sư không nghe nói câu "sắc tức thị không, không tức thị sắc" ? Vô ngôn tự nó là Đạo chứa cả hai mặt sắc và không, có lời và không lời đều thuận với đạo lý thì đó là Vô Ngôn vì Vô Ngã Tướng. Còn Vô Niệm chính là chánh niệm chớ không phải Tà niệm.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Chương thứ tư , Định- Huệ, Ngài Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
" Chư Thiện tri thức, đối với các cảnh mà tâm chẳng nhiễm, gọi là Không Niệm (Vô Niệm). Trong các niệm tưởng của mình, tâm thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sanh tâm (vọng động). Bằng đối với trăm việc ác, tâm chẳng nghĩ đến, các niệm tưởng đều bỏ hết, và nếu một niệm dứt tuyệt, thì chết liền và phải chịu đầu thai sanh chổ khác. Ấy là một điều lầm to, người học Đạo khá suy nghĩ lấy đó. Nếu chẳng biết cái ý chỉ của Pháp (hành đạo), tự mình lầm còn khá, sợ e lại khuyên dạy người khác. Tự mình mê mà chẳng thấy, lại còn nhạo báng kinh Phật. Bởi vậy mới lập Không Niệm là tông" .
Vô ngôn hay Vô niệm hay Không Niệm chính là một, tuy khác danh mà cùng nghĩa, là lúc tìm về Bổn tánh vốn không có một Pháp nào mà tìm được. Nếu thấy có cái chổ nào bám chắc vào (pháp) cho đó nơi xa lìa bĩ, thử thì cũng còn là cái trần lao, tà kiến.
Người có niệm mới có sự sống; có ngôn từ mới sinh động như muôn hoa đua nở, tuy nhiên phải là chánh ngôn, chánh niệm thì mới có cảnh an lạc hạnh phúc. Dù Sư có im lặng mà tâm ý đão điên do việc mình gây tạo, thì cái im lặng chỉ là sự câm lặng của Á Dương Tăng thôi, chớ đâu phải là Vô Ngôn. Trong Kinh Bách Dụ có một câu chuyện gọi là "Khoanh tay chịu đòn" như sau:
Thuở xưa, có một anh ngốc sói đầu, ngày nọ có người thấy đầu anh không có tóc bèn dùng trái lê đánh lên đầu. Đầu anh bị đánh nhiều lần, máu tuôn ra lênh láng.
Tuy bị đánh, anh ngốc vẫn đứng im lặng chịu đòn, không kháng cự, không trốn tránh. Bấy giờ, có người thấy thế trong lòng bất nhẫn liền bảo anh rằng:
-Vì sao anh cứ đứng trơ ra mà chịu đánh. Nếu không đánh lại, thì anh nên tránh đi mới phải . Kìa xem, đầu anh đầy cả máu, không sợ đau à?
Anh ngốc đáp rằng:
- Ôi! Người ngu này rất xấc láo, nó không hiểu gì cả. Vì thấy đầu ta không tóc, nó tưởng là viên đá xinh xắn, nên mới tuỳ tiện dùng trái lê đánh lên, không biết đó là đầu ta. Nó đánh ta đến nổi máu ra lênh láng. Ông ơi ! Đối với hạng người vô trí thức ấy, ta chẳng biết tính làm sao được.
Người kia nghe rồi rất giận, liền trách mắng anh ngốc rằng:
- Anh thật là đáng thương , người ta đánh đến nổi đầu bị thương, máu ra dường ấy mà vẫn đứng chân không lay động, như thế chẳng phải là người ngu si chớ là gì?
Luận: Người tu mà không có tâm chân thật giử giới tu tâm, chỉ gò ép bên ngoài, trau sửa lời nói nhỏ nhẹ mong được người cúng dường cung kính. Kết quả tự mình chịu khổ vô cùng. Bậc tu hành thế nầy và kẽ ngốc kia đều là hạng ngu si.
2 . Việc chung hay việc riêng ?: Việc chung của giáo hội thì phải có ý kiến của Tăng Thống đầu tiên hết , nhưng Ngài Tăng Thống không hay biết gì hết về những chuyện toan tính có kế hoạch để lấy cho bằng được chử ký của Ngài ( QĐ) để cho ông Chánh L đã từng phạm tội Ba la di được giử chức vụ Cố Vấn cao cấp trong Giáo Hội. Cho nên không thể nói những lời trong bức thư nầy của sư Viên Đ là việc chung của Giáo hội. Mà đây là một kế hoạch chung của một nhóm người muốn "bán đứng" Ngài Quảng Độ mà tôi đã có trình bày trong những lá thư trước đây. Như vậy những hành động mà Sư đã tham gia vào việc lũng đoạn Giáo Hội vừa qua có tính cách cá nhân chớ không phải việc chung của Giáo Hội, mặc dù có một nhóm sư tăng phía sau yểm trợ hoặc chỉ đạo cho Sư cũng là việc riêng tư, không quan hệ gì đến việc chung của Giáo Hội.
II. Phần II
A. Trích nguyên văn : "Thời gian qua, dư luận cũng đã phân tích khá tường tận về việc này. Nay chỉ xin trình bày ngắn gọn để xác định những điều chính yếu mà thôi.
Kính thưa Chư tôn đức và Liệt quý vị,
Năm 2003, Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, từ nơi lưu đày ở Quảng ngãi về, Ngài vào chùa Giác Hoa, Sài gòn, ngõ lời muốn tôi ủng hộ Ngài trong việc phục hoạt GHPGVNTN. Sau đó tại Tu Viện Nguyên Thiều, một lần nữa, Ngài chính thức yêu cầu tôi phụ giúp Ngài để củng cố nhân sự GHPGVNTN.
Đức Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang đã dạy rằng: “Trường trại có khi đóng khi mở, Giáo hội thì nay Giáo hội này, mai Giáo hội khác, chỉ có Tổ đình là lâu dài bền vững”. Và Ngài nói tiếp: “Có khi Tổ đình nhờ Giáo hội mà phát triển, có lúc Giáo hội nhờ Tổ đình mới sống còn. Nay Giáo hội gặp hoạn nạn, Tổ đình phải ra tay giúp đỡ, Giáo hội mới mong phục hoạt được”.
Sau đó vài tháng, sáng ngày 17 tháng 6 âm lịch, Hoà thượng Thích Quảng Độ, lúc đó là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, đã ra Tổ đình Thập Tháp, ngõ lời đề nghị tôi tham gia Giáo hội để bổ sung nhân sự trong Viện Hoá Đạo.
Vì lo lắng, đau thương trước hoàn cảnh đất nước, dân tộc và đạo pháp, và luôn ủng hộ lập trường GHPGVNTN, cũng như cảm kích ân tình của nhị vị Hoà thượng, tôi đã bái lãnh, nhận lời, góp sức để tổ chức Đại Hội Bất thường tại Tu Viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định.
Trong Đại Hội Bất Thường, năm 2003 đó, Đức Đệ Tứ Tăng Thống đã ban hành Giáo Chỉ, cử tôi đảm trách chức vụ Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo. Năm 2005, tôi kiêm chức vụ Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo. Năm 2011, Đại Hội Khoáng Đại GHPGVNTN Kỳ IX, khai mạc tại Chùa Giác Hoa, Sài gòn, tôi được suy cử đảm trách chức vụ Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN.
Sau 10 năm tham gia làm việc Giáo hội, giữ các chức vụ Tổng Thư ký, Phó Viện trưởng và sau cùng là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, tôi đã tìm hiểu rất kỹ nội dung Hiến Chương GHPGVNTN, Quy chế Viện Tăng Thống, và Nội quy Viện Hoá Đạo.
Theo Hiến Chương GHPGVNTN, việc bầu chọn nhân sự đảm trách các chức vụ trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo do Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương hội ý với các Ban Đại Diện tỉnh, thành, để suy cử trong một Đại Hội Khoáng Đại thường kỳ hoặc Bất thường của Giáo hội. Viện trưởng Viện Hóa Đạo thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện đệ trình danh sách nhân sự lên Viện Tăng Thống. Sau đó, Đức Tăng Thống sẽ ban hành Giáo Chỉ chuẩn thuận theo danh sách đệ trình.
Trong Giáo hội, Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần. Viện Hóa Đạo mới chỉ đạo Phật sự Giáo hội. Đứng đầu là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, có bổn phận điều hành mọi hoạt động để duy trì, phát triển và chịu trách nhiệm về sự hưng suy, tồn vong của Giáo hội.
Vì vậy, nếu thực hiện đúng theo Hiến Chương GHPGVNTN, Quy Chế Viện Tăng Thống và Nội quy Viện Hóa Đạo, thì tuy Đức Tăng Thống chuẩn y, ban hành, nhưng Ngài không chịu trách nhiệm gì về nội dung các Giáo Chỉ."
**************************
B. Nhận định:
Ý chính của đoạn nầy, Sư muốn nói là:
B1. Điều thứ nhất Sư muốn nói: "Trong Giáo hội, Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần. Viện Hóa Đạo mới chỉ đạo Phật sự Giáo hội. Đứng đầu là Viện trưởng Viện Hoá Đạo, có bổn phận điều hành mọi hoạt động để duy trì, phát triển và chịu trách nhiệm về sự hưng suy, tồn vong của Giáo hội."
Nhận định: Điều nầy không đúng, nếu Viện Hoá Đạo mới thực sự chỉ đạo Phật sự Giáo Hội, còn Tăng Thống không có thực quyền thì tại sao chánh quyền Cộng Sản Việt Nam bắt giam cầm Ngài Quảng Độ mấy chục năm và Ngài Huyền Quang cho tới chết chỉ vì hai vị Tăng Thống nầy nhất định không giao quyền hành trong Giáo Hội vào tay chánh quyền cộng sản? Trong thời gian hai vị Tăng Thống nầy bị giam cầm và quản thúc thì có bao giờ các sư Viên Đ hay sư Thiện H có bị bắt bớ gì đâu? Tại sao ? đánh cọp hay bắt rắn thì phải nắm ngay đầu chớ có ai ngu mà nhắm ngay đuôi mà tấn công? Nếu Ngài Quảng Độ và Ngài Huyền Quang mà không có quyền hành rộng rãi chỉ đạo Phật sự trong Giáo Hội thì chánh quyền cộng sản ép buộc hai người nầy làm gì để cho bị tai tiếng chà đạp nhân quyền và ngăn cấm tự do tôn giáo ? Sư nghỉ là sư khôn hơn người cộng sản sao? Bất quá Viện Hoá Đạo chỉ là cái bóng của Ngài Quảng Độ thôi. Tại sao? Vì Ngài Quảng Độ có mệnh hệ nào thì cái bóng Viện Hoá Đạo nầy cũng thay đổi như thế đó. Hiện nay trên thế giới các dân biểu, các tôn giáo bạn, dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước , củng như nhiều đại sứ các nước khác ..., ngay cả Tổng Thống Hoa Kỳ người ta cũng chỉ biết có Ngài Quảng Độ là vị Tăng Thống của Giáo hội đang đấu tranh cho tự do tôn giáo và tiếng nói dân chủ nhân quyền , chớ nào ai biết ông nào là Viên Đ hay ông nào là Thiện H gì đâu. Như vậy Sư căn cứ trên lý do gì mà nói Ngài Quảng Độ chỉ lảnh đạo tinh thần cho lấy có, mà không có quyền quyết định những chuyện quan trọng và vận mệnh của Giáo Hội? Điều Sư nói đã sai từ bước căn bản hành chánh rồi, còn nếu xét về luật Phật thì lời nói Sư càng lại quá sai lầm. Vì sao? Vì đây là một tổ chức Phật Giáo, vị thượng thủ phạm hạnh đứng đầu Giáo Hội là người đại diện cho ý Phật, đó là bậc Hoà Thượng hay A Xà Lê. Các Phật tử đều phải cung kính xem như là Phật, thì mới đúng theo tổ chức Phật Giáo. Đây đâu phải là hội người già có đóng tiền niên liễm hay chổ để tận hưởng ngủ dục đâu mà không cho các bậc thượng thủ hay sư trưởng có quyền quyết định. Sư đã hiễu chưa? Thêm một điều nữa là nếu sự hiện diện của Ngài Quảng Độ chỉ có chứng minh thôi, nghĩa là trên phương diện tinh thần cho Giáo Hội, và chỉ có Viện Hoá Đạo chỉ đạo Phật sự Giáo Hội thì Sư cần gì phải dùng hạ sách dở trò giả lập văn thư ban chức Cố Vấn Viện Hoá Đạo cho ông Chánh L có đời sống ô uế và bị toà án phán tội, sau đó Sư lại tự dối mình gạt Ngài Quảng Độ để lấy chử ký vào văn bản ngụy tạo kia. Cũng may Long Thiên theo phò trợ bậc chân tăng làm cho tâm trí Sư u mê, cho nên bị sơ hở lộ ra mưu gian là tự mình ký tên trước, vì muốn tiên hạ thủ vi cường nên vụt tốc bất đạt. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân, do đó Ngài mới bắt được quả tang sư đang dở trò lừa bịp.
1. Nơi đây, đối với luật Phật, Sư phạm ba lỗi lớn khó sám hối:
a. Tội Ba La Di Vọng Ngữ , vì miệng nói khâm tuân cất chức ông Chánh L trước kia, nay tráo trở ngụy tạo văn bản cho giử chức cố vấn.
b. Tội Tăng Tàn, cố ý che dấu tội lỗi của sư phạm giới Ba La Di
c. Phá hoại sự hoà hợp tăng đoàn là sự thanh tu của các đồng môn bằng cách cho sư phạm trọng giới vào tu chung, làm cho mọi tu sĩ trong tăng chúng đều phải bị phạm giới.
2. Còn đối với luật hành chánh thì sư phạm vào điều thứ 20 trong Bản Tu Chính Hiến Chương 12-11-1973. Trong đó Sư chịu trách nhiệm trước mặt Tăng Thống trong sự lỗi lầm dùng nhân sự không cẩn thận, vì Đức Tăng Thống đã tẩn xuất kẽ phạm tội, nhưng Sư lại còn bao che cho tội phạm. Người phạm tội và kẽ bao che đồng cấp tội như nhau. Lại nữa tội dối gạt cấp trên, là Ngài Tăng Thống, để âm mưu lấy chử ký xoá hết tội của sư phạm giới. Khi dư luận nguyền rủa thì lại nhắm vào Ngài Quảng Độ mà đổ cho tội ngu si và mù quáng. Ngài Quảng Độ có thể vì vậy mà đau buồn rồi chết. Như thế Sư giết Ngài một cách không gươm đao mà thành công mỷ mãn. Phải như vậy không?
B2. Điều thứ hai Sư muốn nói: "Tăng Thống chỉ có chuẩn y và ban hành mà không được phép cất chức." Sau đây xét hai điều nầy qua hai khía cạnh Hành Chánh và Luật Phật:
Lý luận nầy không đúng, vì sao?
1. Vì trong suốt Hiến Chương Nội Qui Viện Hoá Đạo nầy củng không có điều khoản nào ngăn cấm không cho Đức Tăng Thống xử dụng quyền ban giáo chỉ để cất chức những tăng phạm giới hay phá hoại chánh pháp.
2. Trong Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, bản tu chính ngày 12-11-1973 có ghi:
2a. "Điều thứ 20: Văn Phòng Viện Hoá Đạo do Viện Trưởng chịu trách nhiệm và vị Tổng Thư Ký Văn Phòng Viện Hoá Đạo điều hành. Văn phòng nầy sẽ từ nhu cầu mà thiết lập các Ban hay Phòng. Mỗi Ban do một Phòng hay do (1) Trưởng ban hay Trưởng Phòng chịu trách nhiệm. Các vị nầy do Viện Trưởng đề cử và được ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo chấp thuận. "
Trong điều 20, tương tự như điều 21 (các vụ đến Tổng Vụ Trưởng và các Tổng Vụ Trưởng đến Viện Hoá Đạo Trưởng), đây là lối phân quyền theo hàng đứng, cấp dưới chịu trách nhiệm đối với cấp trên về mặt Hành Chánh, như Viện Trưởng Trưởng Ban hay Trưởng Phòng chịu trách nhiệm trước Viện Trưởng Viện Hoá Đạo ; Viện Trưởng Viện Hoá Đạo chịu trách nhiệm trước Tăng Thống bởi vì Viện Trưởng Viện Hoá Đạo thua quyền Tăng Thống cũng như Thái Sư thì phải nhỏ hơn Vua.
2b. "Điều thứ 28: Một trong các chức vị thuộc Viện Hoá Đạo có thể bị giãi nhiệm:
- Nếu là chức vị trong Ban Chỉ Đạo (từ Tổng Vụ Trưởng trở lên) thì do Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo trình Hội Đồng Giám Luật xét và trình Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương biểu quyết, đức Tăng Thống duyệt y.
-Nếu là chức vị cấp Miền trở lên thì do Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo đề nghị và Tăng Thống chuẩn y.
- Nếu là các chức vị khác từ cấp Tỉnh thì do Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo quyết định.
- Nếu là các chức vị từ chức Quận trở xuống thì do Ban Đại Diện Tỉnh quyết định"
Đây là nói sự giãi nhiệm theo hàng dọc từ cấp Quận tới Viện Hoá Đạo Trưởng. Theo thứ tự, nếu ở cấp thấp thì cấp trên sẽ quyết định. Đây là trách nhiệm và quyền hạn nữa chiều, từ dưới đi lên là phải theo luật như vậy. Nữa chiều trách nhiệm và quyền hạn từ Tăng Thống đi xuống, thì Ngài có quyền quyết định bổ nhiệm và bải nhiệm vị Viện Trưởng Viện Hoá Đạo vì Viện Trưởng Viện Hoá Đạo chịu trách nhiệm trước vị Tăng Thống và vì không có điều khoản nào ngăn cấm quyền Tăng Thống bải nhiệm cấp dưới. Thí dụ như Ngài Huyền Quang có lần mời Sư vào Viện Hoá Đạo, nếu Sư không làm được việc mà Ngài giao cho, thì Ngài mời Sư ra đi. Làm không được việc chủ giao thì mình đi, trước kia Sư thế nào thì giờ Sư về chổ đó, có gì đâu mà Sư la ó lên muốn chiếm lại hết Giáo Hội của người ta?
Lại nửa hiến chương là do tăng lập, còn kinh điển là do Phật giảng. Hiến chương có thể được tu sửa cho hợp thời, nhưng không thể sửa đổi lời kinh Phật thuyết. Nếu chiếu y theo kinh Phật thuyết thì chẳng những Đức Tăng Thống có thể làm việc cất chức các tăng phá hoại chánh Pháp, mà những người Tu có giới hạnh oai nghi không phạm giới luật đều có thể làm được cả. Điều đó Đức Phật đã nói trong Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Trưởng Thọ như sau:
"Có vị Tỳ Kheo trì giới, oai nghi đầy đủ, hộ trì Chánh Pháp, thấy người phá hoại Chánh Pháp liền xua đuổi, khiển trách, trị phạt. Nên biết, vị Tỳ Kheo ấy được phước vô lượng không thể kể xiết. Nếu vị Tỳ Kheo gọi là tốt mà thấy người phá hoại Chánh Pháp không xua đuổi, khiển trách cử tội thì nên biết đó là kẽ oán cừu trong Phật Pháp"
Đoạn kinh trên cũng có thể tìm thấy trong quyển TRÙNG TRỊ TỲ NI SỰ NGHĨA TẬP YẾU TẬP 2 QUYỂN THỨ 13, trang 181 do Ngài Trí Húc Đại Sư biên soạn.
Như vậy thì những tăng ở chức vụ cao đang điều khiển Viện Hoá Đạo khi phạm tội nặng như : Dâm giới, sửa đổi giáo chỉ của Đức Tăng Thống, có âm mưu phá hoại giáo hội, và mời thỉnh sư quốc doanh lên Đài truyền hình giảng đạo, cố tình đề cử sư quốc doanh vào giử chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, bị các thành viên trong Viện Hoá Đạo phản đối... khi có những bằng chứng cụ thể về sự phạm tội thì ai là kẽ có trách nhiệm củng như bổn phận xua đuổi và cất chức những tăng phạm giới đó?
Nếu chiếu theo kinh Đại Niết Bàn, về mặt lý thì mọi bậc chân tu có oai đức đều có thể xua đuổi tăng phạm trọng giới kia ra khỏi tăng đoàn , nhưng về mặt sự thì phải có bậc trưởng lão có chức vụ cao hơn, hoặc Đức Tăng Thống ra giáo chỉ. Như vậy nếu Đức Tăng Thống có đủ chứng cớ trọng tội của vị chức sắc trong Viện Hoá Đạo thì Ngài vẫn có thể trực tiếp ban hành giáo chỉ cất chức vị tăng đó mà Ngài cũng không có lỗi lầm gì, vì sao?
1. Ngài làm đúng như kinh Phật thuyết : Y giáo phụng hành
2. Viện Hoá Đạo, xét về cấp bậc thì cao hơn tất cả chúng tăng chỉ thấp hơn Đức Tăng Thống, về mặt sự, một khi Viện Hoá Đạo trưởng phạm tội nặng nếu Đức Tăng Thống không ban giáo chỉ cất chức thì không ai có thể làm được. Cũng ví như trong một quốc gia, tể tướng phạm pháp thì chỉ có vua cất chức được mà thôi.
Như vậy trong giáo chỉ số 10/VTT/GC/TT do Đức Tăng Thống ban hành, ngoài việc có người cho rằng có ngoại nhơn thúc đẩy Ngài Quảng Độ, còn nhửng lời kết tội và chứng cứ mà các thầy Thích V. Đ. thầy Thích C. L.và thầy Thích V. L phạm trong giới là đúng hay sai? Như Giáo chỉ số 10/VTT/GC/TT nói :
"Trong thời gian gần đây, Hòa Thượng Thích Viên Định, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, đã tự ý cùng vài người thân tín quyết định những vấn đề quan trọng của Giáo Hội mà không thông qua Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo cũng như không thỉnh thị ý kiến của Tăng Thống ;
- Hủy bỏ những phiên họp định kỳ, ra những Thông Bạch sai sự thật, vô hiệu hóa Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, là tiếng nói chính thức của Giáo Hội trong Pháp nạn hiện nay ;
- Đã khâm tuân việc tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho vị Tăng phạm trọng giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản, đó là việc xưa nay chưa từng có.
Những sự kiện nêu trên vừa vi phạm Hiến Chương và Truyền Thống của GHPGVNTN, sẽ đưa đến nạn độc tài, phe phái, để khuynh loát Giáo Hội trong hiện tại và tương lai.
Xét rằng tại Hải Ngoại :
- Kể từ khi được bổ nhiệm Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Viên Lý đã đi ngược lại Đường Hướng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, mà cụ thể nhất là việc mời Tu Sĩ thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam lên đài truyền hình IBC của Hòa thượng thuyết giảng, mời tham dự Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và cố tình đề cử Tu Sĩ nầy vào hàng ngũ lãnh đạo của Giáo Hội, nhưng đã bị các thành viên của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo phản đối.
- Hành động trên đây của Hòa Thượng Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo là biểu hiện sự cấu kết với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong chiều hướng hòa hợp, hòa giải với chế độ Cộng Sản hiện nay...."
Theo như Giáo Chỉ số 10/VTT/GC/TT thì các trọng tội trên có chứng cớ rỏ ràng. Có ai trong các thầy đó lên tiếng để hỏi trưng bằng cớ ra chưa? Điều đó chưa hề thấy bên bị tố đòi hỏi trưng chứng cớ ra mà chỉ thấy những lời kể ra công cán vu vơ và buộc tội "ngoại nhân" bâng quơ vô bằng chứng thật là ấu trỉ. Nhưng dù có kể ra có nhiều công cán đi nữa, hoặc tìm được người để đổ được cái chổ tức giận của mình, thì cái lỗi mà mình đã gây tạo trước đó có vơi được gì không? Người có suy nghĩ há chẳng biết đó là chuyện của trẻ con sao? Người tu như vậy thì hằng ngày tâm niệm chuyện gì? Quán tưởng việc chi?
Hơn nữa, theo truyền thống xuất gia tu học Phật Giáo dù là tu theo Tiểu Thừa, Trung Thừa, hay Đại Thừa, vấn đề phạm giới rất quan trọng hơn hết, hiến chương nội qui dù sau cũng là điều thứ, vì sao? vì Phật dạy:" Người tu lấy Giới lảm thầy và Giới Luật còn thì Đạo Phật còn" Trong Di Giáo Tam Kinh , do Ngài Trí Húc Đại Sư thuật, phần Chánh Tông có viết:
"Đức Phật mới bảo các Tỳ Kheo rằng: Nầy các Tỳ Kheo, sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng kính quí Ba La Đề Mộc Xoa, như tối tăm gặp ánh sáng, kẽ nghèo được của báu. Phải biết đó là bậc thầy cùa các vị, ta có ở thế gian cũng không khác như vậy."
Ngài Trí Húc mới luận rằng: "...Khi Phật tại thế, thờ Phật làm thầy, Phật diệt độ rồi, lấy giới lảm thầy, nếu không trì giới nổi, ắt cùng nhà mà như cách vạn dậm, nếu khéo giữ giới, tất trăm kiếp khác gì cùng thời, lời thật đã do kim khẫu nói ra, lẽ nào còn bỏ đây cầu điều gì khác"
Nhìn đó mà biết chấn chỉnh kỷ cương nơi thiền môn, răn đe kỷ luật tăng phạm giới là điều ướt yếu nhất của Giáo Hội và Tăng Đoàn, không có gì hơn nó được. Phật dù còn tại thế, Ngài cũng làm như vậy thôi. Cho nên người tu hành khi phạm trọng giới thì đã mất hết phẫm hạnh người tu rồi. Hơn nữa nếu là tăng đã từng dạy giới và truyền giới cho người khác mà lại phạm giới thì còn phải gương mẫu nhận chịu sai lầm và chấp nhận sự trừng phạt nặng hơn, như thế mới đúng là bậc chơn tăng, cớ sao chẳng những không thẹn thùng xấu hỗ, lại còn cho người lên website dùng xảo ngôn ỷ ngữ bắt lỗi Đức Tăng Thống? Lại nữa, nay nếu chỉ theo quy tắc của hiến chương mà không kễ đến lời Phật dạy thì có khác nào theo nhỏ bỏ lớn, theo cái phụ bỏ cái chánh, theo tăng bỏ Phật thì ắt là kẽ quá si mê, ngưởi có trí ai lại không chê trách?
III. Phần III
A. Trích nguyên văn: "Thời gian gần đây, không hiểu vì lý do gì, đã có một số việc làm của các thành viên trong Viện Hoá Đạo, rất khác lạ, bí mật, bất thường, không đúng nguyên tắc hành chánh, không theo luật lệ, vượt quá quyền hạn và nhiệm vụ, gây tổn hại cho Giáo hội rất nặng nề, như sau:
- Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Tăng sự kết hợp với Cư sĩ Vụ trưởng Gia Đình Phật tử vụ, viết Thỉnh Nguyện Thư, kết tội chư Tăng, cùng ký tên và trình thẳng lên Đức Tăng Thống, không qua ý kiến của Viện trưởng Viện Hoá Đạo cũng như Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.
- Cư sĩ Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ tự nhận đã viết bản Cáo Bạch của Đức Tăng Thống, cử tội chư Tăng về vấn đề giới luật. Việc này, không những làm tổn hại uy tín Viện Tăng Thống, là Viện chỉ có chư Tăng, không có cư sĩ, mà còn vi phạm về quy giới trong đạo Phật.
- Cư sĩ Phát Ngôn Nhân Viện Hóa Đạo bình luận vấn đề giới luật của chư Tăng trên báo đài quốc tế, làm dấy lên phong trào cư sĩ Phật tử bình phẩm giới luật của chư Tăng.
- Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo và Tổng Vụ trưởng Tổng Vụ Thanh Niên viết Thư Chất Vấn Viện trưởng Viện Hoá Đạo về việc nội bộ, đem phổ biến cho dư luận bên ngoài biết nội tình của Giáo hội.
- Cư sĩ Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ viết Bạch thư về việc nội bộ chư Tăng trong Giáo hội, nhất là vấn đề giới luật, phổ biến cho dư luận bên ngoài biết, tạo điều kiện cho các thế lực vô minh có cơ hội huỷ báng chư Tăng và Giáo hội.
- Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, trực thuộc Viện Hóa Đạo, phổ biến những bài viết về việc nội bộ Giáo hội và vấn đề giới luật của chư Tăng, không thông qua Viện Hoá Đạo, làm tổn hại uy tín chư Tăng và Giáo hội. Trái lại, đã không phổ biến những tài liệu của Văn Phòng Viện Hoá Đạo, nhất là bản Huấn Từ quan trọng của Viện trưởng Viện Hoá Đạo gửi Đại Hội Thường Niên GHPGVNTN Hoa Kỳ-Văn Phòng II Viện Hoá Đạo.
***************************
B. Nhận định:
Ông Huynh Trưởng Lê Công Cầu và vị thiện tri thức Quán Như đã từng xác định các cư sĩ đoàn mà Sư nêu lên đó, không phải chỉ là cư sĩ không thôi , mà họ là các Thành Viên của Viện Hoá Đạo , cho nên họ được quyền tham dự việc Giáo Hội như là mọi thành viên khác ( nhìn danh sách bổ nhiệm vào Giáo Hội thì biết). Đây là chổ mờ mịt mà Sư không thấy rỏ bấy lâu nay, nên cứ mãi tìm biết bao kế sách để buộc tội cho họ, rồi tốn công vô ích. Sư là kẽ dùng viện luật mà thật mơ màng, không thông suốt được Hiến Chương chút nào! Nhưng trong bài viết nầy, chỉ đề cập về vai trò cư sĩ thuần tuý trong đạo Phật từ xưa nay vì vai trò của cư sĩ rất quan trọng, luôn luôn sát cánh với Giáo Hội nguyên thuỷ và các Tăng đoàn , cũng như trong các chùa chiền trải qua nhiều thế kỷ từ lúc Đức Phật khai sinh ra Phật Giáo 600 năm trước Tây lịch cho đến hôm nay.
Trước khi nói về vấn đề các Tổng Vụ Trưởng kết hợp với các Cư Sĩ Vụ viết thỉnh nguyện thư kết tội Chư Tăng, Sư hảy nhìn xem lý do mà Ngài Quảng Độ cách chức Sư và sư Viên L là đúng hay là sai? Hảy nhìn xem những hành động của Sư như:
"Trong thời gian gần đây, Hòa Thượng Thích Viên Định, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, đã tự ý cùng vài người thân tín quyết định những vấn đề quan trọng của Giáo Hội mà không thông qua Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo cũng như không thỉnh thị ý kiến của Tăng Thống ;
- Hủy bỏ những phiên họp định kỳ, ra những Thông Bạch sai sự thật, vô hiệu hóa Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, là tiếng nói chính thức của Giáo Hội trong Pháp nạn hiện nay ;
- Đã khâm tuân việc tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho vị Tăng phạm trọng giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản, đó là việc xưa nay chưa từng có." (từ Giáo Chỉ 10)
Lý do trên, đúng hay sai? Điều mà Sư làm quá bất lợi cho Giáo Hội là đúng hay sai? Sư làm những chuyện trịch thượng như vậy thì có Tổng Vụ Trưởng hay Cư Sĩ vụ nào dám đưa thỉnh nguyện thư cho Sư xem. Dĩ nhiên thượng bất minh thì hạ tắc loạn. Chử "loạn" đây là nói về thủ tục hành chánh không thể đi đúng thứ tự nữa vì có người ngăn chận và phá huỷ. Vậy lỗi đó đâu phải do nhóm Cư Sĩ Vụ hay Tổng Vụ Trưởng gây ra đâu, mà là Sư là kẽ tạo ra trước và có trách nhiệm cho sự rối loạn nầy vậy. Tại sao các Cư Sĩ Vụ hay Tổng Trưởng Vụ không tố cáo HT Như Đ hay HT G. Đẳng mà lại tố cáo Sư. Nếu Sư bị oan ức tại sao không nêu lý do, mà lại kéo hết cả nhóm ra khỏi Giáo Hội. Cả bọn khoanh tay đứng nhìn Giáo Hội Mẹ bị bọn công an đánh tưng bừng hoa lá, làm cho hết hồn hết vía người tu hành vô tội? Bọn côn đồ phá phách, bắt bớ, hăm doạ người tu hành trong khi họ làm lễ ra mắt ban tân lảnh đạo của Giáo Hội , mà lấy làm thoả thích, không can thiệp một lời, bây giờ nhắm không làm gì được nữa nên mới lên tiếng để thanh minh thanh nga cho người ta "thông cảm"? Tội của Sư lớn lắm đấy, tướng tội nếu có, sợ thế gian nầy không chổ chứa.
Cũng như nước chảy thành dòng khi gặp vật chận thì nó chảy theo đường vòng. Ở trong gia đình, cha mẹ ỷ mình sức mạnh bắt nạt con cái thì chúng phải dấu diếm. Trường hợp vậy thì đâu thể đỗ lỗi cho con cái mình. Các Tổng Vụ Trưởng, các Cư Sĩ Vụ thường ngày kính sợ mấy ông sư như ông bà nội thiếu điều bỏ hết chuyện tư gia mà đến lo cho Chùa Chiền chớ có dám đâu tự ý sinh sự với chư tăng, nhưng vì Sư đây chuyên quyền cấu kết ngoại nhân, bao che dung dưởng cho hạng ma tăng phá đạo, thì tự nhiên lực lượng cứu nguy cư sĩ vùng dậy mà bảo vệ cho Ngài Quảng Độ, chẳng lẽ đó là điều sai quấy. Ngộ biến tùng quyền, tức nước vở bờ, đó cảnh giới Vô Ngôn mà Sư nào hiểu được? Như vậy biết tâm không trụ tức là tu hành. Cứu người hơn cứu hoả . Trong quyển Nguồn Thiền Dẫn Giải, có người hỏi tổ Khuê Phong Tông Mật phương pháp tu hành, Ngài nói : "Chỉ tuỳ việc đương thời, ứng hợp cơ đương thời đâu có Pháp nhất định tên A Nậu Bồ Đề, đâu có hạnh nhất định tên Ma Ha Bát Nhã, chỉ cốt tình , không khởi nghĩ, ý không suy tính, tâm không phát sanh , huệ không chổ trụ, tức là chơn tánh, chơn giải, chơn tu, chơn chứng" Phật dạy quên thân bỏ ngã, chủ yếu là chổ không chấp tướng mà không phạm giới, chứ Ngài đâu có dạy tự sát bao giờ. Gặp người muốn hại mình thì mình phải dùng phương tiện tự vệ, rồi sau đó mới ra đến pháp luật để phân biệt trắng đen phải trái; còn nếu như để cho chúng giết mất rồi thì phải trái biết nói cùng ai? Nếu Sư không làm gì sai lầm thì có cư sĩ nào dám đốt giai đoạn tiến hành thủ tục cho thỉnh nguyện thư. Nhưng vì Viện Hoá Đạo Trưởng cố ý đi ngược bản Hiến Chương coi thường Tăng Bộ và Hành Chánh nên Cư Sĩ mới làm liều. Xem một đoạn trong Bạch Thư của ông Huynh Trưởng Lê Công Cầu thì rỏ:
"....3/. Quan Điểm của Hòa Thượng Thích Viên Định, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo :
- Trên thực tế, tôi (Lê Công Cầu) chẳng quan tâm đến vụ án Thầy Chánh Lạc vì tôi nghĩ đây là việc của chư Tăng, hàng Cư sĩ không nên xen vào.
Nhưng tối 30.5 âm lịch Quí Tỵ (07.7.2013) Hòa Thượng Thích Không Tánh nhân chuyến ra dự lễ Khánh Thành Chùa Phước Thành của Hòa Thượng Thích Chí Thắng, Ngài ghé thăm tôi và cho tôi biết rằng Hòa Thượng Viện Trưởng nhờ Ngài ra vận động Quí Ôn Quí Thầy ở Miền Trung lưu giữ Hòa Thượng Chánh Lạc lại với Giáo Hội. Theo Ngài thì Hòa Thượng Chánh Lạc là người có công với Giáo Hội, đã yểm trợ Giáo Hội về vật chất lẫn tinh thần, nhất là chống Cọng tích cực, khi cần thì Hòa Thượng chỉ hô một tiếng là có bốn, năm trăm người đi biểu tình liền. Còn việc Ngài tạo nghiệp thì Ngài trả nghiệp chứ có liên quan gì đến Giáo Hội đâu mà cho Ngài nghỉ việc ?
- Chiều mồng 2.6 âm lịch tôi đến Tu Viện Nguyên Thiều (Bình Định) để chuẩn bị tham dự húy nhật Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang. Tôi vào gặp Hòa Thượng Viện Trưởng và xin Ngài cho biết là có nhờ Hòa Thượng Không Tánh đi vận động như vậy không. Ngài cười và nói là Hòa Thượng Không Tánh đã làm sai ý tôi rồi, tôi chỉ xin ý kiến Quí Ôn, Quí Thầy là nên để Hòa Thượng Chánh Lạc nghỉ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành VPII, đưa Hòa Thượng lên làm Cố vấn mà thôi. Với chức vụ nầy Hòa Thượng Chánh Lạc chỉ ngồi chơi xơi nước, mình khỏi mất người, khỏi bị tay chân Hòa Thượng đánh phá, nhưng không biết Ông Cụ (tức Đức Tăng Thống) có chấp nhận không đây.
Trong nhiều lần Đức Tăng Thống có nói cho tôi biết trăn trở của Ngài về vụ Hòa Thượng Chánh Lạc, nhưng lúc đó tôi chưa nghiên cứu kỹ vấn đề nên tôi đã khen giải pháp có lý của Hòa Thượng Viện Trưởng.
- Vừa về đến Huế thì Đại Lão Hòa Thượng Thích Như Đạt, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự gọi tôi ra chùa Long Quang gấp, vừa đến nơi Ngài đã mắng tôi một trận xối xả, Ngài nói : “Vừa qua tại Thập Tháp, thầy đã làm thinh không nói, vì nói có nơi có chốn đâu phải nói khơi khơi được. Cậu khen giải pháp của Ngài Viện Trưởng hay thì đây, toàn bộ hồ sơ của Ông Chánh Lạc đây, Viện Tăng Thống có thì Tổng Vụ Tăng Sự cũng có, cậu vừa hiểu luật Đạo cũng như luật Đời, cậu tham khảo rồi cho thầy biết kết luận”.
- Trong khi đó Đức Tăng Thống cũng gọi điện cho tôi biết là Hòa Thượng Viện Trưởng muốn ra Quyết Định đưa Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên ngôi vị Cố Vấn Văn phòng II nhưng Ngài không chấp nhận.
4/. Tổng Vụ Tăng Sự vào cuộc : THỈNH NGUYỆN THƯ ra đời :
- Phụng hành công việc của Ngài Tăng Sự giao phó, tôi đã nghiên cứu rất kỹ vấn đề Hòa Thượng Chánh Lạc. Đồng thời tham khảo ý kiến một số Huynh Trưởng cựu trào từng gần gũi Hòa Thượng Chánh Lạc tại Hoa Kỳ, khiến tôi đưa tới kết luận trình Ngài Tăng Sự, là Viện Hóa Đạo đã nhầm rồi : Hòa Thượng Chánh Lạc, Chủ Tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo là một vị Tăng phạm giới, mà Tăng phạm giới thì phải y luật xử trị, và y luật xử trị thuộc thẩm quyền của Viện Tăng Thống qua sự kiểm tra và đệ trình của Tăng Bộ, căn cứ vào Điều Thứ 5, Chương Hai của Hiến Chương GHPGVNTN.
Đây không phải là việc thay đổi nhân sự của Văn phòng II nên không thuộc thẩm quyền của Viện Hóa Đạo, do đó Hòa Thượng Viện Trưởng không thể ra Quyết Định đưa Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên làm Cố Vấn được. Chỉ khi nào Hòa Thượng Chánh Lạc bị tẫn xuất khỏi chức vụ Chủ tịch khi ấy mới cử vị khác thay thế, cho nên việc thay đổi nhân sự chỉ là việc thứ yếu.
- Sau đó Đức Tăng Thống điện ra thăm, tôi cũng trình bày như vậy. Ngài nói : “Tôi biết chứ, nhưng Hòa Thượng Viện Trưởng cứ muốn ra Quyết Định cử hai Ông ấy lên làm Cố Vấn, Hòa Thượng Viên Lý điện về cũng nói như vậy. Tôi mà không giải quyết vụ Chánh Lạc thì sau nầy không ai giải quyết được đâu, tôi nằm xuống Chánh Lạc sẽ tác oai tác quái, Giáo Hội sẽ tan nát hết. Vậy ý kiến Tăng Bộ ra làm sao ? Vì trong Hiến Chương qui định ở Điều 8 Chương Thứ Hai là việc “y luật xử trị” phải có báo cáo của Tăng Bộ”.
- Tôi đến trình bày với Ngài Tăng Sự, thì Ngài biểu tôi mời Hòa Thượng Thanh Quang Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo ở Đà Nẵng ra cho Ngài dạy việc. Theo Ngài thì Tăng Sự lo về giới luật nhưng Tổng Thư Ký thì lo về hành chánh nên phải kết hợp để có quyết định chung.
BA LẦN THỈNH NGUYỆN :
*** Thỉnh nguyện lần thứ nhất :
-Ngày 19.7.2013, để tránh sự dòm ngó của công an, 3g sáng Hòa Thượng Thanh Quang ra Huế. Khi hai Ngài gặp nhau, tôi trình bày sự việc xong, hai Ngài quyết định ngày 23.7.2013 vào diện kiến Đức Tăng Thống để xin Đức Tăng Thống giải quyết vấn đề Hòa Thượng Chánh Lạc theo thẩm quyền của Viện Tăng Thống.
- Trong cuộc diện kiến nầy, Đức Tăng Thống đã hứa khả là sẽ ngưng mọi chức vụ của Hòa Thượng Chánh Lạc trong Giáo Hội nhưng chỉ thực hiện bằng Quyết Định chứ không đáng để phải ra Giáo Chỉ, hai Hòa Thượng hoan hỷ ra về.
*** Thỉnh nguyện lần thứ hai
- Trong lúc đó tôi nhận được thư của Hòa Thượng Viện Trưởng nhờ tôi thỉnh mời Quí Ngài vào Giác Hoa ngày 22 hoặc 23 tháng 7 năm 2013 để bàn việc Hòa Thượng Chánh Lạc, sau đó sẽ đúc kết ý kiến trình lên Đức Tăng Thống. Tôi thưa lại là mời những Ngài nào, Hòa Thượng Viện Trưởng nói là chỉ mời Ngài Thiện Hạnh, Ngài Như Đạt, Ngài Thanh Quang và tôi thôi. Tôi đã in thư nầy gởi trình Quí Ngài.
- Hai ngày sau tôi lại nhận được thư của Hòa Thượng Viện Trưởng, trong thư Hòa Thượng nói là thôi đừng thỉnh mời nữa mà Quí Ôn đi vất vả, ai có ý kiến chi thì cứ trình lên Đức Tăng Thống để Ngài định liệu.
- Nhưng ngay tối hôm đó, Thượng Tọa Viên Hỷ điện thoại cho tôi bảo rằng đừng thỉnh ý Quí Ôn nữa, công việc giải quyết xong rồi, Hòa Thượng Viện Trưởng sẽ ra Quyết Định thỉnh Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên làm Cố Vấn.
- Tôi trình bày sự việc lại cho Quí Ngài biết. Ngài Tăng Sự và Ngài Tổng Thư Ký rất ngạc nhiên về sự quyết định nầy.
- Nhận thấy có những hiện tượng quá bất thường và bất nhất xảy ra chỉ trong vòng mấy ngày, nên quí Ngài đã nhất trí viết Thỉnh Nguyện Thư dâng lên Đức Tăng Thống và Ngài Viện Trưởng. Nội dung Thỉnh Nguyện Thư thỉnh cầu Đức Tăng Thống y luật xử trị Hòa Thượng Chánh Lạc như Ngài đã hứa khả chứ không thể để Hòa Thượng Viện Trưởng ra Quyết Định thỉnh mời để bao che Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên làm Cố Vấn được vì điều nầy trái với Hiến Chương GHPGVNTN.
- Sáng ngày 12.8.2013 Nhị vị Hòa Thượng vào Sai Gòn dâng Thỉnh Nguyện Thư. Hai Ngài đến Giác Hoa mời Hòa Thượng Viện Trưởng cùng đi để cùng mặt cùng lời trình lên Đức Tăng Thống nhưng Hòa Thượng Viện Trưởng hẹn buổi chiều. Đến chiều thì Hòa Thượng Viện Trưởng từ chối không đi, nên hai Ngài đi với Thượng Tọa Viên Hỷ qua Thanh Minh Thiền Viện. Khi dâng Thỉnh Nguyện Thư, Thượng Tọa Viên Hỷ đọc cho Đức Tăng Thống nghe, Ngài bảo để lại một bản cho Ngài nghiên cứu, một bản đem về trình Hòa Thượng Viện Trưởng và một bản Tăng Sự lưu.
Lúc 3g30 chiều nhị vị Hòa Thượng về lại Giác Hoa, chưa trình bày gì thì bị Hòa Thượng Viện Trưởng nói năng nặng lời nên hai Ngài bỏ ra về..."
Lại còn có những lần Sư ỷ mình là Viện Trưởng không tôn trọng ý kiến của các tăng sư từ xa về lễ hội, như một đoạn trong bài viết của một Phật Tử hộ pháp Hương Trần như sau:
"...1_ Hòa Thượng cho rằng việc Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự kết hợp với Cư Sĩ Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử Vụ viết thỉnh nguyện thư kết tội chư Tăng và trình thẳng lên Ngài Tăng Thống, không qua ý kiến của Viện Trưởng Viện Hóa Đạo cũng như Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống. Xin hỏi Hòa Thượng những lần Hòa Thượng có những hành vi phá hoại sinh hoạt thường sự của GHPGVNTN và coi thường các Vị Tăng trong GHPGVNTN từ xa về dự lễ, hội, Những lúc đó các vị ấy đã lên tiếng và muốn được nghe lời giải bày và xin ý kiến của Hòa Thượng nhưng đều bị gạt phăng ra, không xem lời của họ nói ra gì mà cứ tiếp tục theo đường lối của Hòa Thượng mà làm. Trước tình hình nghiêm trọng như vậy thì Hòa Thượng cho rằng Tổng Vụ Trưỡng Tổng Vụ Tăng Sự, Cư Sĩ Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử vụ phải tìm đến ai để trình bày sự việc có chiều hướng phá hoại đường lối sinh hoạt của GHPGVNTN? Nếu nói là phải thông qua Viện trưởng VHĐ và Chánh Thư Ký VTT thì thử hỏi qúy thầy có công chính liêm minh để xử lý tội trạng của mình và những người cùng đồng phe phái với mình không? Nếu là không và biết trước là những thư từ hoặc thỉnh nguyện thư đó sẽ bị nhím chìm ngay trên tay của Viện trưởng VHĐ và Chánh Thư Ký VTT thì có cần phải thông qua hay không?...."
Đó, có phải là mình gây sự trước không? cho nên đừng bảo sự gây! Trách mình trước, rồi mới nói người sau. Thế mới đúng người công chính. Hơn nữa, cư sĩ là một lực lượng tiền phong mạnh mẽ sát cánh hộ pháp chư Tăng cùng Giáo hội, Sư đâu thể khinh thường được. Kinh sách còn ghi lại biết bao nhiêu vị cư sĩ giúp cho Phật và chư Tăng hoằng dương đạo pháp cũng như chiến đấu với ác vương mà bảo vệ chánh pháp. Từ thuở xa xưa lúc Phật còn hiện tiền thì có quốc Vương Ba Tư Nặc, Vua A Xà Thế, vua Bình Sa Vương , sau 100 năm Phật nhập Niết Bàn thì có vua A Dục và những vị quốc vương sau nầy tiếp tục hộ pháp qua nhiều triều đại. Ngài Duy Ma Cật khai diễn ý nghĩa Niết Bàn qua kinh Bất Nhị; nhờ Hiền Hộ trưởng giả mới có kinh Bát Chu Tam Muội, cũng nhờ thái hậu Vi Đề Hy mà có kinh Thập Lục Quán, hay nhờ hoàng hậu Thắng Man nên mới có kinh Thắng Man .... Trong Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Bình Đẳng Tánh Giác có ghi: Trong nhóm Ngài Hiền Hộ còn có 15 vị Chánh Sĩ tức là Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Thiện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát , Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát , Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát , Tịch Căn Bồ Tát , Tín Huệ Bồ Tát , Nguyện Huệ Bồ Tát , Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ tát , Chế Hạnh Bồ Tát , Giải Thoát Bồ Tát làm thượng thủ." Đây là những người Cư Sĩ tại gia mà sư thường đảnh lể mổi lần thắp nhang trên bàn Phật, Sư có nhớ không? Là do câu " Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát". Họ là những Đại Sĩ, nghĩa là bậc Đẳng Giác, bên ngoài hiện tướng phàm phu , nhưng bên trong thâm đạt chánh đạo, sống tại gia nên gọi là Chánh Sĩ. Vậy tu sĩ đảnh lễ cư sĩ hằng ngày mà tự không biết thôi. Thế thế mới gọi là Đại Thừa Vô lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác. Chổ nầy muốn nói người tu hành lấy đạo pháp làm trọng, lấy giới hạnh làm Thầy, lấy Pháp làm hướng đi thì tự nhiên thuận với Tứ Y Pháp:
Y nghĩa bất Y ngử
Y Pháp bất Y nhân
Y Kinh Liễu Nghĩa bất y Kinh Bất Liễu Nghĩa
Y trí bất y thức
Có được như vậy thì mới không thấy có sự giai cấp khác biệt giữa Tu Sĩ và Cư Sĩ. Cốt lỏi của sự tu hành chính là nghiêm trì giới luật, đức trọng quỷ thần kinh. Không nên câu nệ giai cấp, việc làm giữa Tu Sĩ và Cư Sĩ mà sa vào lưới mê. Do đó cố chấp kinh điển mà không hiểu nghĩa thì hoá ra phỉ báng lại lời Phật dạy, đó chính là ma thuyết. Vì sao? Là vì ôm học kinh điển đến đau đầu loạn tưởng mà không đem ý Phật dạy trong Kinh ra áp dụng tu hành, lại còn cóp nhóp năm ba chử , tự ý tán bàn cho sai lạc lời Phật dạy, nạn lỗi người chân đức cho nên gọi là hạng cuồng huệ. Người tu hành chân chính chỉ ngán sợ tội lổi, ngoài ra không còn gì để sợ. Cư sĩ càng phê phán, mình càng bị chỉ trích thì càng mau thành tựu trên con đường Phật Đạo, như trong kinh Kim Cang, Bài thứ bảy - Thọ Trì Công Đức, Phật dạy ông Tu Bồ Đề :
" Tu Bồ Đề ! Nếu người thọ trì đọc tụng kinh nầy, mà bị người khinh khi, thì người nầy do tội chướng đời trước rất nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ đọa vào ác đạo; nhưng nay chỉ bị người khinh khi, những tội chướng đời trước được tiêu diệt và họ mau đặng đạo quả Bồ Đề"
Cho nên người xưa mới nói : muốn trách người trước tự xét mình. Trong Cổ Học Tinh Hoa còn ghi lại một câu chuyện Giận Chó: "Một hôm Dương Bố đi dạo, lúc ở nhà ra, Dương Bố mặc một chiếc áo màu trắng. Đi nửa đường gặp mưa to, nên Dương Bố phải ghé vào nhà người bạn tránh mưa. Người bạn mang một chiếc áo màu đen ra cho Dương Bố mượn. Khi tạnh mưa, Dương Bố vẫn mang chiếc áo đen về nhà . Vừa vào tới ngõ, con chó trông thấy vội sủa ầm lên. Dương Bố tức giận toan đánh con chó. Người anh là Dương Chu mới chạy ra bảo:
- Em đừng đánh nó. Nó sủa như thế là phải . Giả sử con chó trắng nhà ta ra đi một lúc trở về thì đen, phỏng chú có xem chuyện đó là thường không? "
Trong quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do Ngài Thích Thiện Hoa biên soạn có ghi lại 34 di ảnh và tiểu sử của Chư thánh Tử Đạo, bao gồm bốn chúng: Tăng, Ni, Ưu Bà tắc, Ưu Bà Di, đứng đầu là Ngài Thích Quảng Đức , trong đó đã có tới 14 vị là cư sĩ tại gia như sau:
1. Bồ tát Thích Quảng Đức (tự thiêu ngày 11-6-1963, 67 tuổi)
2. Đại Đức Thích Nguyên Hương (tự thiêu ngày 4-8-1963, 28 tuổi)
3. Đại Đức Thích Thanh Tuệ ( tự thiêu ngày 12-8-1963, 18 tuổi)
4. Ni Cô Thích Nữ Diệu Quang ( tự thiêu ngày 15-8-1963, 27 tuổi)
5. Thượng Tọa Thích Tiêu Diêu ( tự thiêu ngày 16-8- 1963, 71 tuổi)
6. Phật Tử Hồng Thể (thương phế binh) ( tự thiêu ngày 28-9-1963, 81 tuổi)
7. Đại Đức Thích Quảng Hương (Tự thiêu ngày 5-10-1963, 37 tuổi , ngồi kiết già)
8. Đại Đức Thích Thiện Mỹ (tự thiêu ngày 27-10-63)
9. Đại Đức Thích Huệ Hồng (tự thiêu , 1966)
10. Phật Tử Nguyễn Thị Vân (tự thiêu ngày 12-4-Bính Ngọ, 17 tuổi)
11. Đại Đức Thích Thiện Huệ (tự thiêu ngày 1-6-1966, 18 tuổi)
12. Ni Cô Thích Nữ Diệu Trí ( tự thiêu ngày 4-6-1966, 27 tuổi)
13. Ni Sư Thích Nữ Thanh Quang (tự thiêu ngày 26-5-1966)
14. Nữ Phật Tử Đào Thị Yến Phi (tự thiêu ngày 26-1-1965, 17 tuổi)
15. Nữ sinh Phật Tử Nguyễn Thị Huệ (tự thiêu ngày 30-8-1966, 17 tuổi)
16. Nữ Phật Tử Đào Thị Tuyết (tự thiêu ngày 17-6-1966, 17 tuổi)
17. Ni cô Thích Nữ Trí Túc ( bảo vệ Hiến Chương PG) ( tự thiêu ngày 3-10-1967 , 81 tuổi)
18. Ni cô Thích Nữ Trí Chơn (bảo vệ Hiến Chương PG) (tự thiêu ngày 8-10-1967, 54 tuổi)
19. Ni cô Thích Nữ Huệ Lạc (bảo vệ Hiến Chương PG) ( tự thiêu ngày 22-10-1967, 22 tuổi)
20. Đại Đức Thích Hạnh Đức (bảo vệ Hiến Chương PG) ( tự thiêu ngày 31-10-1967, 19 tuổi)
21. Ni cô Thích Nữ Thông Huệ (bảo vệ Hiến Chương PG) (tự thiêu ngày 1-11-1967, 80 tuổi)
22. Nữ Phật Tử Nhất Chi Mai (cầu hoà bình VN) (tự thiêu ngày 16-5-1967, 33 tuổi)
23. Thượng Toạ Thích Thiện Lai (cầu hoà bình VN) ( tự thiêu ngày 11-61970, 74 tuổi)
24. Ni cô Khất Sĩ Liên Tập (cầu hoà bình VN) (tự thiêu ngày 4-6-1970, 24 tuổi)
25. Nữ sinh Phật Tử Quách Thị Trang (bị thảm sát ngày 25-8-1963, 15 tuổi)
26. Phật Tử Phan Văn Hoà (thảm sát, 18 tuổi)
27 Phật Tử Nguyễn Văn Phát (thảm sát, 27 tuổi)
28. Phật tử Thiện Chí Huỳnh Văn Thiện (bị thảm sát ngày 16-6-1966, 18 tuổi)
29. Đại Đức Thích Thiện Ân (bị thảm sát ngày 3-6-1970, 21 tuổi)
30. Huynh Trưởng Quang Duy Trinh (bị thảm sát ngày 18-4-Ất Tị, 40 tuổi)
31. Huynh Trưởng Nguyễn Đại Thức (bị thảm sát ngày 27-3-1966, 37 tuổi)
32. Phật Tử Lê Thị Vân (tự thiêu ngày 12 tháng 4 năm?, 17 tuổi)
33. Phật Tử Đào thị Tuyết ( tự thiêu ngày 17-6-1966, 17 tuổi)
34. Đạo Hữu Lê Văn Mỹ (tự thiêu ngày 17-11-1969, 67 tuổi)
Con số 14 vị cư sĩ trong 34 Tứ chúng quả là con số vượt trội nhân sự, cho nên vì lý do đó mà lực lượng cư sĩ được xem như là thành phần nòng cốt bảo vệ và chấn hưng Giáo Hội PGVNTN cho tới ngày hôm nay. Sư xem thấy như vậy mà biết rằng các cư sĩ thành viên trong Giáo Hội không phải tầm thường như Sư đã nghĩ đâu. Trong thời gian pháp nạn, hiện biết là có 34 người vị pháp vong thân, còn số chưa biết mà hy sinh thì cũng còn rất nhiều. Họ vì ai mà làm ? cũng chỉ vì muốn bảo vệ Đạo Pháp, Hiến chương , Hoà bình mà phải hy sinh tánh mạng. Như thế thì biết Giáo hội đã phải đổ xuống biết bao xương máu mới được gầy dựng. Hôm nay vì cớ chi mà Sư lại muốn "Xoá Hết Làm Lại" ? Há chẳng phải là Sư muốn phá huỷ hết công sức khó nhọc của tiền nhân? Đó chẳng phải là một lỗi lầm quá to lớn trước linh giác của "thánh tử đạo" và Chư Lịch Đại Tổ Sư sao? Nay trở lại vấn đề mà Sư bắt lỗi các Cư Sĩ trong GHPGVNTN về chuyện thỉnh nguyện thư. Sư cứ suy nghĩ đi, lý do gì mà các cư sĩ kia soạn ra thỉnh nguyện thư? Nếu không có thư thỉnh nguyện đó, có lẽ bây giờ sư Viên L , Sư Thiện H , ông Chánh L, và bản thân Sư đang sung sướng vì được toại nguyện , trong khi Ngài Quảng Độ, sau khi ký tên vào văn bản do Sư soạn trước, thì đau khổ chết đứng chết ngồi! Đúng là cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán. Thật uổng phí Ngài Huyền Quang mang Sư vào Viện Hoá Đạo, giờ đây Sư làm cho Giáo Hội của Ngài Huyền Quang muốn chìm luôn. Trong Kinh Đại Niết Bàn, từ lúc xa xưa , Đức Phật đã cho phép Tứ chúng chất vấn, hỏi tội , trừng trị những Tăng sư phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp mà không có tội lỗi gì cả, vì những tăng sư đó là thế lực của Ma Vương chớ chẳng phải những kẽ tu hành chân chính. Hảy xem một đoạn Kinh Văn trong kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Trường Thọ, Đức Phật nói với Ngài Ca Diếp Bồ Tát rằng:
"... Nếu người (Tỳ kheo và Tỳ Kheo Ni) nào không tu học ba phẫm Pháp nầy ( Giới, Định, Huệ) lười biếng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp, thời vua , quan, 4 bộ chúng phải nên nghiêm trị.
-Nầy Ca Diếp! như vậy các vua , quan, 4 bộ chúng có mắc tội chăng?
Ca Diếp Bồ Tát thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, Không!
Phật nói:
- Các vua , quan , và 4 bộ chúng ấy còn không có tội, huống là Như Lai."
Đó là lời Phật thuyết, trừng trị tăng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp là bổn phận của người con Phật. Như trên kia đã kể, Sư phạm vào ba tội lớn, nay cộng thêm một:
1. Ba La Di Vọng ngữ
2. Che dấu bênh vực cho sư phạm tội Ba la di nên phạm tội Tăng Tàn
3. Không tuân lời Phật, mang kẽ phạm tội tu chung trong Giáo Hội làm các tu sĩ vô tội phải mang lấy tội.
4. Chẳng những vậy mà còn muốn làm cho Ngài Quảng Độ mang lấy nhục vào thân , tức đi mà chết. Tức là Sư không kễ bậc Tăng Thống hay A Xà Lê là bậc Hoà Thượng của mình, muốn họ chết đi cho rảnh mắt.
Bốn điều lỗi phạm trên đủ cho bốn Bộ Chúng lên án, trừng trị rồi. Có gì đâu mà oan ức? Vậy từ nay Sư đừng khinh thường Cư sĩ nữa vì họ là sức mạnh của Sư vậy. Phải cần nên thương yêu Cư Sĩ như em như con thật sự, thì Cư sĩ sẽ yêu mến Sư như cha mẹ. Lý ở đời là thế. Còn ngược lại nếu Sư xem cư sĩ như oán cừu thì họ sẽ bỏ Sư bơ vơ, thí dụ như Sư có bị bọn công an giam bắt hay chùa Giác Hoa bị trưng thu thì ai là người lên tiếng trong Hội Nhân quyền để can thiệp cho Sư? Cũng may mắn cho Sư là Ngài Quảng Độ còn an bình, bằng như có chuyện không may đã xảy ra cho Ngài Quảng Độ, thì Sư với những ai là đồng bọn chỉ có nước chun tuốt xuống Địa Ngục mà đền tội.
IV. Phần V
A. Trích Nguyên Văn:
"- Giáo Chỉ số 10 thay đổi nhân sự Viện Hóa Đạo, không qua Đại hội lấy ý kiến của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương, không phù hợp Hiến Chương Giáo hội, Quy chế Viện Tăng Thống, Nội quy Viện Hóa Đạo, trái với tinh thần từ bi của Phật giáo và đạo đức của Đức Tăng Thống.
Khởi đầu là bản Cáo Bạch của Đức Tăng Thống, công bố vấn đề giới luật của chư Tă...ng, làm chấn động tinh thần Tăng, Ni và Phật tử. Tiếp đến, các thành viên Viện Hoá Đạo phổ biến những việc nội bộ Giáo hội ra ngoài làm cho dư luận càng hoang mang thêm nữa. Và sau cùng, với Giáo Chỉ số 10, rất bất ngờ, không tuân thủ theo nguyên tắc, điều khoản nào của Hiến Chương Giáo hội, như giọt nước cuối cùng làm tràn ly.
Không thể chấp nhận những việc làm vi phạm giới luật, trái Hiến Chương một cách nặng nề như thế, nên hầu hết chư Tăng, thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo, Ban Đại Diện các Tỉnh, Thành trong nước, các Giáo hội hải ngoại, các tổ chức Gia Đình Phật Tử trong và ngoài nước, không thể làm gì khác, ngoài việc đều lần lượt từ chức.
Từ trước đến nay, các thế lực vô minh luôn tìm cách đánh phá, gây phân hoá nhân sự để làm suy yếu GHPGVNTN. Với Giáo Chỉ số 10, có thể nói, các thế lực vô minh đã thành công trong việc triệt tiêu nhân sự và tiềm lực của GHPGVNTN.
Trong cương vị Viện trưởng Viện Hoá Đạo, với bổn phận và quyền hạn, theo Hiến Chương quy định, nhưng trên thực tế, bị hạn chế rất nhiều, nên tôi đã không thể điều hành tốt đẹp các Phật sự Giáo hội trong thời gian đảm trách.
Kính mong Chư tôn đức và Liệt quý vị hoan hỷ lượng thứ cho.
Kính bạch Chư tôn đức và thưa Liệt quý vị,
Kinh Phật dạy: “Tâm vô thường, pháp vô ngã”, việc tồn vong, biến dị là chuyện bình thường, không có gì đáng nói. Và những việc đã qua, cũng không nên nhắc lại làm gì, vì có thể bị cho là lời biện bạch, chỉ tăng thêm thị phi, bỉ thử. Đôi khi im lặng là sự trả lời hoàn hảo nhất.
Nhưng với trách nhiệm Viện trưởng Viện Hoá Đạo, trước khi rời chức vụ, tôi phải phúc trình sự biến động của Giáo hội để chư Tăng và Phật tử được biết. Lẽ ra, việc này phải được thực hiện sớm hơn, nhưng vì để tránh cho Giáo hội bị các thế lực vô minh, lợi dụng cơ hội đánh phá, nên đành im lặng đợi chờ.
Nay, sau hơn 3 tháng, dư luận đã tạm thời lắng dịu, mọi việc cũng tương đối rõ ràng. Nhất là đã có rất nhiều chư Tăng và Phật tử cùng đồng bào các giới nóng lòng gọi điện, nhắn tin hoặc trực tiếp đến gặp, muốn biết rõ về sự tình Giáo hội và nội dung Giáo Chỉ. Không thể phụ lòng, nên phải tường trình thay cho lời phúc đáp.
Nội dung Giáo Chỉ số 10, nêu ra nhiều lý do để ngưng chức, là những điều hoàn toàn không có, hoặc gượng ép một cách phi lý, không đúng sự thật:
- Việc mời chư Tăng từ Giáo hội Phật giáo Việt Nam gia nhập vào GHPGVNTN, trước đây đã từng có. Những vị ấy hiện vẫn đang giữ những chức vị rất cao và trọng yếu nhất trong GHPGVNTN. Điều đó không thể gọi là hoà hợp, hoà giải với Nhà cầm quyền Cộng sản.
- Không có việc hủy bỏ phiên họp nào như được đề cập trong Giáo Chỉ số 10 cả. Vì không ai có thể và có quyền huỷ bỏ cuộc họp của Giáo hội, nhất là trong lúc Đức Tăng Thống và Hội Đồng Lưỡng Viện đều có mặt đông đủ.
- Cá nhân Đức Tăng Thống không có thẩm quyền “cách chức” hay “phục chức” thành viên trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo cũng như trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương. Theo Hiến Chương qui định, muốn thay đổi nhân sự từ Tổng Vụ trở lên, phải có ý kiến của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương. Vì vậy, nếu không có Đại Hội, việc Viện trưởng Viện Hoá Đạo làm văn thư yêu cầu phục chức cho một thành viên trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo và trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương, đã bị cách chức, là điều hoàn toàn vô nghĩa, ngay cả trong trường hợp có chữ ký của Đức Tăng Thống, cũng không hợp pháp. Do đó, không có việc Viện trưởng Viện Hoá Đạo yêu cầu Đức Tăng Thống cùng ký tên chung trong Văn thư phục chức nào cả.
- Vụ án chùa Như Lai xãy ra đã lâu. Và năm 2000, toà án Hoa Kỳ cũng đã xét xử minh bạch. Đến năm 2003, trong Đại Hội Bất thường tại Tu Viện Nguyên Thiều, Đức Đệ Tứ Tăng Thống đã tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc vào thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương và đảm trách chức vị Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo, chiếu theo sự đề cử của chư Tăng các Giáo hội hải ngoại và Hoa Kỳ. Sau đó, các năm 2005, 2007 và 2009, mỗi nhiệm kỳ 2 năm, Đức Tăng Thống đều có Giáo Chỉ tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc tiếp tục giữ các chức vị trên. Đến năm 2011, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống lại tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc kiêm nhiệm thêm chức Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo. Việc tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc lên đảm trách các chức vị trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương và Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo, trước đây, hoàn toàn hợp pháp, theo đúng nguyên tắc Hiến Chương Giáo hội. Và việc đề cử Hoà thượng Thích Chánh Lạc thuộc trách nhiệm của chư Tăng các Giáo hội hải ngoại và Hoa Kỳ. Không phải việc của riêng ai, trong cũng như ngoài nước. Nhưng các thế lực vô minh đã dựng lại vụ án năm 2000 và khai thác việc này để đánh phá Giáo hội, góp phần, đưa đến sự đỗ vỡ hiện nay.
- GHPGVNTN có cơ sở trên khắp thế giới, nhưng chỉ có một cơ quan thông tin duy nhất là Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris. Cơ sở này lại nương nhờ vào trang nhà của một tổ chức khác, nên việc thông tin Giáo hội rất hạn chế. Viện Hoá Đạo có bổn phận và quyền hạn lập thêm một cơ quan thông tin thứ hai, hoặc nhiều hơn nữa, để phổ cập tin tức nhanh chóng, cung cấp kinh sách, tài liệu, hình ảnh Giáo hội đầy đủ là nhu cầu đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên, để đề phòng sự xuyên tạc, Viện Hoá Đạo đã trình bày việc mở trang nhà ghpgvntn.net rất rõ ràng và Đức Tăng Thống cũng đã tán đồng và cổ động, hối thúc nhanh chóng xúc tiến. Khi đã hoàn thành trang nhà, Đức Tăng Thống cũng đã hai lần duyệt qua và chỉ dạy thêm: “Nên cố gắng tìm tài liệu Giáo hội trước năm 1975, đưa vào cho đầy đủ”.
Tóm lại, những lý do ghi trong Giáo Chỉ số 10 đều là hoàn toàn suy diễn, phi lý, không đúng sự thật. Cũng vậy, tin tức đảo chánh Đức Tăng Thống, là điều hoàn toàn phi lý và không có. Vì Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần, không phải là người điều hành và quyết định mọi Phật sự Giáo hội, hơn nữa, nhiệm kỳ của Ngài là vĩnh viễn trọn đời. Đảo chánh Đức Tăng Thống tức là xé bỏ Hiến Chương Giáo hội, là tự mình loại ra, không còn là thành viên của GHPGVNTN nữa.
Cuối cùng, theo thiển nghĩ, Hiến Chương GHPGVNTN tuy chưa thể nói là bản Hiến Chương thật sự hoàn hảo, nhưng đó là sản phẩm trí tuệ của hàng chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội, và qua nhiều lần tu chính, nên nội dung Hiến Chương vừa hợp tình, hợp lý, rất hợp với trào lưu dân chủ và nhất là xứng hợp với giáo lý từ bi, giải thoát của đạo Phật.
Nếu các thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo hội các Châu lục, Ban Đại Diện các cấp Htheo đúng nguyên tắc, điều lệ của Hiến Chương Giáo hội, Quy Chế Viện Tăng Thống, Nội Quy Viện Hoá Đạo và tinh thần từ bi của Phật giáo để điều hành thì mọi Phật sự sẽ thành công tốt đẹp.
Kính bạch Chư tôn đức và thưa Liệt quý vị,
Sau Giáo Chỉ số 10, hầu hết chư Tăng trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương, Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo, các Giáo hội hải ngoại và các Ban Đại Diện Tỉnh Thành, các Thành viên, Đơn vị Gia Đình Phật Tử trong và ngoài nước đều nối nhau viết thư từ chức.
Tuy chư Tăng, bị ngưng chức cũng như từ chức, không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, nhưng vẫn là thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Và bản Hiến Chương GHPGVNTN là sản phẩm tinh thần quý giá của Tăng Tín đồ Phật giáo Việt Nam.
Nay chư Tăng sinh hoạt dưới hình thức Tăng Đoàn để tiếp tục sứ mạng bảo vệ Hiến Chương, phục hoạt GHPGVNTN, phục vụ nhân loại và dân tộc bằng giáo lý từ bi của Đức Phật và ủng hộ công cuộc vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam.
Vì bổn phận và trách nhiệm, tôi xin nguyện cùng chư Tăng sinh hoạt trong Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để tiếp tục phục vụ.
Và nhân đây, xin mượn lời Đức Đệ Tam Tăng Thống, thỉnh cầu chư Tăng trong và ngoài nước hãy bỏ qua những bất đồng, dị biệt, cùng nhau hoà hợp thanh tịnh, tương kính, tương thuận, tương giáo, tương sám, để kết hợp trong một Tăng Đoàn lớn mạnh. Được như vậy, việc hoằng pháp độ sanh, phục hoạt GHPGVNTN và hỗ trợ cho công cuộc vận động cho tự do dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam mới mong sớm được thành tựu.
Đất nước đang lâm quốc nạn, Phật giáo đang lâm pháp nạn. Dân tộc đang sống trong cảnh tối tăm, đau khổ. Kính mong chư Tăng vì tinh thần từ bi Bồ Tát Đạo, cứu giúp chúng sanh trong cơn khổ nạn, hãy đoàn kết một lòng, tạo sức mạnh, cùng nhau góp phần giải trừ quốc nạn và pháp nạn cho dân tộc Việt Nam, để toàn dân được sống trong cảnh an bình tự do hạnh phúc.
Kính mong Chư tôn đức dũ lòng từ bi hoan hỷ cho.
Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát
Chùa Giác Hoa, Sài gòn, ngày 19 tháng 3 năm 2014.
Tỳ kheo Thích Viên Định,
(Nguyên Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN)
****************************** *********
B. Nhận Định:
Nói tới nói lui, ý Sư không chấp nhận Giáo Chỉ số 10 và không công nhận quyền hành chánh cách chức của Ngài Tăng Thống. Nghĩ cũng lạ, tại sao người tu hành như Sư mà nói chuyện không đúng lý ? Lúc ban đầu dung dưỡng bao che cho sư phạm trọng giới, sau đó ép buộc Ngài Tăng Thống phải cho lại sư phạm giới giử lại hai chức sau khi đã bị đuổi ra khỏi Giáo Hội, bây giờ lại nói là Tăng Thống không có quyền cho phục chức bất cứ ai. Trước đuổi ra khỏi Giáo Hội, sau kêu lại cho giử hai chức khác tức là một cách thức phục chức có gì khác với phục chức. Trong luật Phật, có bao đời một tăng phạm giới Ba La Di, đã bị đuổi ra khỏi Giáo Hội, rồi lại trở lại làm chức vị Cố Vấn cấp cao? Phật có dạy như thế không? Sư cùng sư Thiện H vào chổ quản thúc Ngài Quảng Độ gia tăng áp lực ép mãi, cho đến khi Ngài Quảng Độ phải buộc miệng nói :
” Sáng nay Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Hòa Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống y áo chỉnh tề đến đảnh lễ tôi và xin tôi chấp thuận đưa Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên ngôi vị Cố Vấn Văn phòng II Viện Hóa Đạo, tôi đã giải thích cho hai Hòa Thượng nghe vì sao tôi phải tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc, nhưng hai Hòa Thượng vẫn một mực yêu cầu. Tôi nói rằng, giữa tôi và Ông Chánh Lạc nếu Quí Vị cứ chọn Ông Chánh Lạc mà không nghe lời tôi, thì tôi sẽ từ chức, quí vị muốn làm gì thì làm."
Và Ngài còn nói thêm với ông Cầu:
Ngài bảo : “Đem Cáo Bạch vào gấp, tôi đã từ chức thật sự rồi đó, sáng nay Hòa Thượng Viện Trưởng và Hòa Thượng Chánh Thư Ký lại đến yêu cầu tôi ra Quyết Định đưa Chánh Lạc và Giác Đức lên Cố Vấn, nhưng tôi không chấp nhận. Tôi nói bây giờ có Hòa Thượng Viện Trưởng đại diện cho Viện Hóa Đạo và Hòa Thượng Chánh Thư Ký đại diện cho Viện Tăng Thống, tôi xin từ chức, từ nay tôi không quan hệ gì đến vấn đề Giáo Hội nữa, tôi về tịnh tu…”
( Bạch Thư của ông Lê Công Cầu)
Lúc đó Sư cùng Sư Thiện H quả thật chứng đắc "vô ngôn" loại cao cấp rồi, đó là hai người cùng im lặng "tứ mục tương cố" hay "tâm ấn tâm" trong ánh mắt nhìn nhau mà thầm "khế hợp" cái gọi là " Tăng Thống tự truất phế" vậy thì sung sướng biết mấy, rồi gật đầu chọn ông Chánh L, khiến cho Ngài Quảng Độ phải gọi Ông Cầu mang giấy mực cho Ngài viết bản tuyên bố từ chức. Ông Cầu phải hồn phi phách tán, còn Ông Ái và Cô Ỷ Lan khóc cả ngày đêm, còn hai Sư thì lâng lâng như lên chín tầng mây. Có người còn mơ màng chiếc ghế Tăng Thống nở mặt nở mày với các sư quốc doanh, bắt tay cùng thủ tướng nước Việt Nam thì ôi vinh hạnh biết mấy cho vừa! Nhưng giấc mơ không có mấy ngày, dư luận thế giới tràn ngập khắp nơi , lại sợ mọi người quy cho mình tội "ép chúa, soán ngôi" thì nguy , cho nên mới dụng kế hoản binh trở lại yêu cầu Ngài Quảng Độ đáo nhiệm, mà không quên bêu xấu uy tín của Ngài Quảng Độ bằng cách cho Sư Không Tánh đánh lừa Ông Ái để thông báo sự đáo nhiệm cho mọi người trên thế giới biết ngay lập tức, trong khi Ngài Quảng Độ dặn một tuần sau mới cho biết. Tuy nhiên chưa hết sau đó tiếp tục làm thêm như trong Giáo chỉ số 10 nói:
- Đã khâm tuân việc tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho vị Tăng phạm trọng giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản, đó là việc xưa nay chưa từng có."
Nay tóm lại các điều Sư đã phạm:
A. VỀ LUẬT PHẬT:
1. Ba La Di Vọng ngữ
2. Che dấu bênh vực cho sư phạm tội Ba la di nên phạm tội Tăng Tàn
3. Không tuân lời Phật, mang kẽ phạm tội tu chung trong Giáo Hội làm các tu sĩ vô tội phải mang lấy tội.
4. Chẳng những vậy mà còn lừa gạt Ngài Quảng Độ để lấy cho được chử ký vào văn bản lập sẳn để phục chức lại cho Ông Chánh L. Tức là Sư không còn tôn kính bậc Tăng Thống hay A Xà Lê là bậc Hoà Thượng của mình.
5. Ép bậc Tăng Thống Hoà Thượng hay A Xà lê phải rời khỏi chức vụ điều hành Giáo Hội
B. VỀ HÀNH CHÁNH: (căn cứ vào Giáo chỉ số 10, mọi người đều thấy)
1. Dung dưỡng bao che tu sĩ phạm giới làm sai lạc tôn chỉ kỷ cương trong lời mở đầu của hai Bản Hiến Chương năm 1964 và 1973 trong sự điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật, và nếp sống của các Tông Phái.
2. Dối gạt cấp trên là vị Tăng Thống: Đã khâm tuân việc tẩn xuất Hoà Thượng Chánh L nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hoá Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho tăng phạm giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản.
3. Xây dựng phe đảng trong Giáo Hội: Cùng với vài người thân tín quyết định những chuyện quan trọng của Giáo Hội mà không thông qua Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo cũng như không thỉnh thị ý kiến của Tăng Thống.
4. Lủng đoạn sự sinh hoạt Giáo Hội: Huỷ bỏ những phiên họp định kỳ, ra những Thông Bạch sai sự thật , vô hiệu hoá Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, là tiếng nói chính thức của Giáo Hội trong pháp nạn hiện nay.
5. Không tôn trọng hiến chương: Không kê khai và báo cáo lại Giáo Hội những động sản và bất động sản mà đàn việt dâng cúng để trả lại cho Giáo Hội.
6. Không tự bào chữa cho mình được sau khi nghe Giáo Chỉ số 10 vừa đăng tải và kéo dài hơn ba tháng. Sau đó chờ sau khi Tăng Đoàn mới ra đời rồi mới phản biện với những lý do có rất nhiều sự dối trá thầm ẩn như trong Chú Giải của một Cao Nhân Quán Như trong bài viết Quán Như – Chú Giải Đôi Lời Tự Bạch của Hòa thượng Thích Viên Định, nguyên Viện trưởng VHĐ GHPGVNTN, ngày 21 tháng 3, 2014, như sau:
"Chú Giải 2
Chưa bao giờ có Đại Hội Khoáng Đại GHPGVNTN Kỳ IX, khai mạc tại Chùa Giác Hoa, Sài gòn cả, bởi lý do là hoàn cảnh khó khăn, trong nước không thể tổ chức được cho nên GH ủy nhiệm cho VP 2 tổ chức tại Hoa Kỳ và chức vụ Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN là do Đức Đệ tứ Tăng thống tấn phong chứ không do Đại hội suy cử gì cả – như lời Thầy Nguyên Viện trưởng nói: “tôi được suy cử đảm trách chức vụ Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN”, nói thế là chưa chính xác.
Chú Giải 6
Viện dẫn Hiến chương để nói bàn về tính cách hợp pháp hay không hợp pháp của Giáo Chỉ số 10, đó là nói cái hệ Quả mà lẫn tránh cái Nguyên Nhân; Thế ai dẫn đầu phái đoàn VHĐ đến Thanh Minh Thiền viện, 3 lần 3 lượt đảnh lễ Đức Tăng thống, sám hôi, xin khâm tuân mọi việc. Thế nhưng, chưa được 5 canh giờ thì Nhóm Thầy Viện trưởng lại “quay thuyền GH sang hướng khác”, ngược lại ý chỉ Đức Tăng thống. Trong khi đó Đức Tăng thống đang trong vòng bị quản chế, không giao tiếp được với bên ngoài, thân cô, thế cô, nếu Ngài không dùng Giáo Chỉ để định hướng con thuyền GH đi đúng đường thì con thuyền sẽ phiêu lưu về đâu và trước sự sống còn của GH, trách nhiệm thuộc về ai. Trước biến cố xãy ra, sự sống còn của GH thì đức Tăng thống gánh vát trách nhiệm, trong khi đó, xử lý việc GH thì THầy Viện trưởng lại vận động nhiều người (gọi điện đi nhiều nơi với nhiều người) hè nhau từ chức gây áp lực để “bó tay” đức Tăng thống, ứng xử cái kiểu nầy thì quả là kẻ dưới ép người trên quá đáng rồi. Nói tóm lại, hệ quả chung quanh Giáo Chỉ số 10, cần nói bàn cái nguyên nhân gây nên hơn là viện dẫn cái hệ quả của nó, cái gút của vấn đề là ở chỗ đó.
Chú Giải 7
Sự thật là vận động nhiều người, bằng những kỷ xảo thế tục, mà cụ thể là dung 512 triệu tiền cứu trợ lót đường để kêu gọi cùng nhau từ chức, gây áp lực lên Đức Tăng thống.
Chú Giải 19… cùng nhau hoà hợp thanh tịnh…, để kết hợp trong một Tăng Đoàn lớn mạnh. Ví như để kết hợp trong một GHPGVNTN như xưa thì thật là vạn phúc cho lê dân biết mấy. Đàng nầy, để kết hợp trong một Tăng Đoàn lớn mạnh. Ô hô quả là lạy ông tôi ở bụi nầy.
Nghĩ sao vậy hả Thầy nguyên Viện trưởng, nói Đông, Tây, vòng vo để kêu gọi GH, Đức Tăng thống cùng vát xác xuống con THUYỀN THÚNG Tăng Đoàn để… trở thành PHÂN BAN của Phật giáo quốc doanh răng hè. Bởi vì Hiến chương GHPGVN (của nhà nước) qui định GHPGVN là tổ chức duy nhất đại diện cho PGVN trong và ngoài nước. Nầy nói cho mà nghe, Tăng đoàn thành hình,
bước thứ nhất là Giải thể GHPGVNTN
bước thứ 2 là trở thành phân ban – theo xách dép cho Ôn Trí Quảng, Thanh Phong…
bước thứ 3 là… tự xử (giải tán) vì “thố tử cẩu phanh”; “điểu tận cung tàn” mà thôi.
Còn bước thứ tư là: xú phương cũng một tiếng đồn hay khoan hông độ lượng cho lắm thì cũng “mua vui cũng được một vài trống canh” với bằng khen: có công trong việc xóa sổ GH Huyền Quang – Quảng Độ. "
7. Nóng nảy hấp tấp: Giáo chỉ số 10 vừa tuyên bố thì cùng ngày đó liền có sự trả đủa lại bằng thư từ chức, và rút ra khỏi Giáo Hội. Như vậy mà nói hy sinh hay phục vụ cho Giáo Hội. Đúng ra là dùng Giáo Hội cho sự tiến thăng danh vọng thì đúng hơn.
8. Muốn tiêu diệt luôn Giáo Hội: Vừa bước ra khỏi Giáo Hội lại lôi kéo thêm một đống sư tăng theo, cùng ký tên từ chức và rút lui khỏi Giáo Hội một lược. Sư là Viện Trưởng Viện Hoá Đạo chớ đâu phải là ngoại đạo hay chú tiểu mới vào tu, mà không biết sự nguy hiễm cho Gíao Hội và bản thân Ngài Quảng Độ trong tình trạng khẩn trương như thế. Dù cho Sư không biết được điều nguy hiễm đang xảy ra cho Ngài Quảng Độ , Chư Tăng , và Giáo Hội trong thời gian 3 tháng trước đây thì cũng chứng tỏ một sự chậm chạp và không hiễu gì hết của người lảnh đạo Viện Hoá Đạo. Như vậy thì đâu phải là người xứng đáng mà Ngài Quảng Độ giao việc cho làm.
Nay còn lại ba điều Sư muốn nói:
Điều 1: Trích nguyên văn "Cũng vậy, tin tức đảo chánh Đức Tăng Thống, là điều hoàn toàn phi lý và không có. Vì Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần, không phải là người điều hành và quyết định mọi Phật sự Giáo hội, hơn nữa, nhiệm kỳ của Ngài là vĩnh viễn trọn đời. Đảo chánh Đức Tăng Thống tức là xé bỏ Hiến Chương Giáo hội, là tự mình loại ra, không còn là thành viên của GHPGVNTN nữa. "
******************
Nhận định điều 1: Đảo chánh thì không có, nhưng những việc các Sư đã làm để ép đẩy Ngài Quảng Độ vào chổ tự làm giấy từ chức và bị đưa thân vào chổ nguy hiễm chính là ý đồ truất phế. Trong Kinh Bách Dụ có một câu chuyện về Chứng Minh Sự Thật như sau:
Có một nhóm người ngồi trong nhà bình luận phẩm hạnh của một người khác. Trong nhóm ấy có người nói rằng :
- Người đó cái gì cũng hay cả , chỉ có hai điều không tốt: điều thứ nhất hay nổi sân; điều thứ hai là chạm việc hay lỗ mãng.
Đang lúc y nói thế, bất ngờ người kia đi ngang qua cửa nghe lọt vào tai, lập tức nổi giận đùng đùng nhảy bổ vào nhà vừa đánh y vừa nói:
- Ta nổi sân hối nào ? Ta lỗ mãng với ai?
Bấy giờ mọi người đều nói:
- Cử chỉ của ngươi hiện tại chẳng đủ chứng minh cho sự sân hận và lỗ mãng của ngươi sao?
Sư có hiễu là tại sao Ngài Quảng Độ biết là nhóm người của Sư đã âm mưu truất phế Ngài rồi chứ gì? Hay gọi là "đảo chánh " thì cũng chẳng khác gì nhau. Các hành động đánh phá Giáo Hội và ép ngặt Ngài Quảng Độ từ chức vừa qua của mấy Sư đó, chứng tỏ có ý đồ truất phế Tăng Thống từ lâu rồi. Còn nữa, câu nói "Xoá hết làm lại" nghĩa là gì? Có phải là một mô hình Giáo Hội hoàn toàn mới và không chấp nhận cái củ? Cái củ là Ngài Quảng Độ, là Giáo Hội củ bị xóa?
Trong Kinh có nói:" Vừa có tâm niệm nhỏ nhiệm đã đầy đủ Ba Ngàn Đại Thiên Thế giới" Như không muốn người biết thì đừng làm, nếu có làm thì trước sau gì ai cũng biết. Sư và sư Thiện H có ý đồ truất phế bằng cách làm cho Ngài Quảng Độ tự mình "tự truất phế" mà không có một lời nào ngăn cản, thế là chứng tỏ ý đồ "đảo chánh " rồi. Phật dạy: " Tâm là nguồn tạo ra mọi tội lỗi". Các sư hằng ngày không lo dưởng tánh tu tâm, cho nên mới xảy ra chuyện phá Đạo như vậy.
Điều 2: " Tuy chư Tăng, bị ngưng chức cũng như từ chức, không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, nhưng vẫn là thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất." ?
*************
Nhận định điều 2: Có lòng nhớ kính và có ý muốn trở lại Giáo Hội Mẹ là đáng quý và đáng khen ngợi. Tuy nhiên cũng không nên tự ý cưởng ép quyết định đơn phương mà bất chấp luật lệ thế gian cũng như Luật Tạng do Phật giảng dạy. Hôm trước, cả đám người rầm rộ ký tên công bố từ bỏ Giáo Hội để thành lập ra Tăng Đoàn mới; rồi hôm nay lại tự quyết định cho mình vẩn còn là thành viên trong GHPGVNTN? Không biết mấy ông tu hành kiểu nào mà càng lúc càng mê muội. Ông Sư chi bửa nay thì nói thế nầy, rồi ngày mai thì nói thế khác? Của mình thì nói của người ta, còn của người ta thì nói là của mình. Đầu óc điên đão tưởng như thế, rồi lấy cái gì làm cái tâm tu hành, tụng kinh, và Niệm Phật? Như vậy rồi cái danh xưng Tăng Đoàn mới nầy tính làm sao, có ích lợi gì cho ai không? Trong Kinh Bách Dụ, có một câu chuyện Mua Lừa như sau:
" Thuở xưa có một số tín đồ cử hành cuộc đại hội, họ cần dùng nhiều chén bạc. Vị giáo chủ của họ bảo đệ tử ra chợ mời một người thợ đồ sứ về làm. Đệ tử vâng lệnh ra đi tìm thợ. Đi giữa đường bọn họ gặp được người thợ đang dắt một con lừa, trên lưng con lừa chở rất nhiều đồ sứ đem ra chợ bán. Lừa sẩy chân té quỵ xuống bao nhiêu đồ sứ trên lưng đều rơi xuống đất và bể tan tành. Người thợ đồ sứ buồn rầu khóc lóc mãi. Bọn họ thấy thế làm lạ hỏi rằng:
-Tại sao ngươi khóc?
Người thợ đáp:
- Tài nào tôi không khóc, bao nhiêu đồ sứ công phu làm trong một năm, nay định chở đem ra chợ bán, nào ngờ con lừa sẩy chân, trong khoảnh khắc bể nát cả. Như thế không đáng rầu rĩ ư?
Bọn họ nghe nói, mừng thầm nghĩ rằng:
- Con lừa nầy giỏi quá, công khó người thợ làm một năm trời, thế mà chỉ nháy mắt nó có thể làm cho tiêu tan hết.
Nghĩ xong, bọn họ thương lượng với người thợ để mua con lừa (thay vì là mướn người thợ về). Người thợ đang tức giận con lừa ngu si và muốn tống nó đi, nên vội vã bán ngay.
Bọn họ cởi lừa về ra mắt vị giáo chủ. Vị giáo chủ mới hỏi rằng:
- Thợ đâu? Tại sao các chú không thỉnh người thợ về mà lại đem con lừa nầy lại đây?
Bọn đệ tử trả lời:
- Thưa thầy, bản lảnh con lừa nầy không vừa đâu! còn lớn hơn người thợ đồ sứ, vì người thợ làm trong một năm mới thành một số đồ, mà chỉ trong giây lát một mình nó phá tan hết. Có giỏi không?
Vị giáo chủ lắc đầu lia lịa và nói rằng:
- Sao các chú dại dột thế ? Con lừa nầy trong khoảnh khắc có thể làm bể biết bao nhiêu món đồ sứ, nhưng dù trải trăm vạn năm nó cũng không thể làm ra được một cái. Thôi các chú trả lừa lại cho người ta.
Các đệ tử đi tìm người thợ trả lừa lại, nhưng người chủ không nhận. Bọn đệ tử cũng không biết phải làm sao. Con lừa ngu si khốn khổ nầy cuối cùng bị làm thịt, thật là tội nghiệp. "
Ấy ở đời ai cũng muốn mình là người quan trọng như người thợ, nhưng ở việc thì lại chọn việc của lừa, thế mới khổ thân.
Nếu muốn công nhận là người của GHPGVNTN, Sư phải có sự chấp nhận của Đức Tăng Thống và Viện Hoá Đạo của GHPGVNTN. Tu chung với những người đã phạm giới, thì chư Tăng trong Giáo Hội PGVNTN sẽ bị ảnh hưởng về sự tu tập và giới đức, và ngay cả Ngài Quảng Độ cũng không thể lảnh hết dùm nổi đâu. Trong thời Phật, Ngài Tân Đầu Lư vì tham lấy cái bát của ngoại đạo treo trên cột ngà voi cao xa, nên trổ thần thông thòng tay dài ra lấy. Vì vậy mà bị Phật trách phạt phải ra khỏi cõi Diêm Phù Đề nầy mà độ chúng, đồng thời còn không cho nhập Niết Bàn. Những đời sau nầy, nếu là người tu hành chân chính thì ai dám sửa luật? Tốt hơn, Sư làm bản tự kiểm thảo, rồi xin trả giới lại thì may ra được chấp nhận trở về. Việc đó cần bàn riêng với Ngài Tăng Thống và VHĐ. Tu hành quí ở chổ kiến tánh minh tâm. Xênh xoang áo mảo cân đai để làm gì, rồi một đời cũng phí qua, vì rỏ ràng nơi chổ dụng mà có hai đường mê ngộ, tà chánh khác nhau từ lúc vừa phát tâm:
"Trong hang sư tử sinh sư tử
Dưới núi chồn hoang sinh ra chồn" (thơ của người xưa)
Ở đây có một việc quan trọng là lời nhắn gởi với Sư và toàn thể Tăng Đoàn mới nầy (TĐGHPGVNTN) là đừng dựa vào câu nói :" Tuy chư Tăng, bị ngưng chức cũng như từ chức, không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, nhưng vẫn là thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất." rồi không chịu giao trả động sản cũng như bất động sản do đàn việt hiến cúng trước khi quí vị ký tên ra khỏi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Ngài Quảng Độ. Đây là câu nói vi phạm Tội Ba La Di của luật Tạng vì dung chứa và bao hàm sự trộm cắp của Thường Trụ Tam Bảo, đồng thời chính câu nói nầy phá tan hết đức độ và hạnh nguyện của những ai cố ý dùng nó vào việc lưu giử tài sản của Giáo Hội mẹ. Đó cũng là nguyên nhân đoạ vào địa ngục kiếp nầy hay kiếp sau. Nếu còn quý mến GHPGVNTN thì phải tuân hành theo Hiến Chương thì mới gọi là lời nói không xảo quyệt.
Vậy các Sư trong Tăng Đoàn mới nầy (TĐGHPGVNTN) phải lập tức trao trả tài sản lại cho Giáo Hội Ngài Quảng Độ để tránh sự vi phạm điều 37, chương 10 của Hiến Chương Giáo Hội và tránh được trọng tội trộm cắp của Tam Bảo, nhất là căn chùa Kim Quang mà sư Thiện H đang giữ đó. Căn chùa nầy là tài sản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) mà sư Thiện H cứ giữ hoài không chịu trả lại, đó là sự trái đạo lý tu hành, trái Hiến Chương, trái phép nước luật vua, trái lương tâm, trái giới hạnh Phật dạy. Người người nghe nói, ai cũng lạnh lùng kinh sợ khi nghĩ về giới đức của Tăng Đoàn mới nầy ! Rồi sách vở sau nầy cũng ghi lại nữa, chớ có phải bỏ qua đâu ! Xem những kinh sách thường ghi lại những chuyện xấu tốt của các thiền sư thì biết.
Người biết tu hành không nên dùng lời nói văn hoa mà che đậy chổ lỗi lầm. Hạt giống khi đã gieo xuống đất thì dù có nói thế nào đi nữa, nó vẫn mọc cây nở hoa và đơm trái. Việc làm trái đạo sẽ tạo ra ác nghiệp; việc làm thiện pháp sẽ mang ta đến hạnh phúc cho mình trong hiện nay và cả nhiều kiếp về sau. Dùng lời nói để che dấu điều tội lỗi thì tạo gây thêm tội lỗi chớ nào có giãm được chút ít gì đâu. Cho nên nói tu là sự thực hành để khám phá ra sự ràng buộc và thoát ra khỏi ràng buộc. Thoát ra khỏi ràng buộc thì gọi là Giải Thoát hay Niết Bàn. Giới là vủ khí bảo hộ thân, pháp là phương hướng suy tầm, trí tuệ là phương tiện phá chướng. Việc tu thì không tu, mà từ sáng đến chiều cứ suy nghĩ những lời nói ba hoa bóng bẩy để che dấu lỗi mình, cho nên mới gọi là Nhà Ma Động Quỷ. Nay bị ràng buộc việc trước, lại càng thêm trói cột việc sau. Cứ tiếp tục gạt mình gạt người, mê mờ thêm chồng chất cho nên tâm chí yếu hèn bị ma vương lôi kéo, không sức phản kháng , thì sao gọi là người mặc áo ca sa? Còn nói chi đến giới hạnh trong đời nầy, kễ như là phế bỏ!
Điều 3: "Việc mời chư Tăng từ Giáo hội Phật giáo Việt Nam gia nhập vào GHPGVNTN, trước đây đã từng có. Những vị ấy hiện vẫn đang giữ những chức vị rất cao và trọng yếu nhất trong GHPGVNTN. Điều đó không thể gọi là hoà hợp, hoà giải với Nhà cầm quyền Cộng sản."
***********************
Nhận Định điều 3: Nếu như mời bất cứ ai gia nhập vào GHPGVNTN mà có sự đồng ý của Tăng Thống, thì theo đúng Bản Hiến Chương và Luật Phật. Còn nếu mời chư Tăng từ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam mà không có phần đồng ý của Tăng Thống, tức là tự ý hoà hợp, hoà giải với nhà cầm quyền Cộng Sản. Và Sư đã vi phạm Hiến Chương, phần mở đầu "Lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất" như trong Giáo Chỉ nói.
Bài viết nhận định về: "Đôi Lời Tự Bạch của HT Thích Viên Định, nguyên Viện Trưởng VHĐ GHPGVNTN" đến đây là hết. Kính chúc Sư nhiều may mắn.
Cổ nhân có lời thơ:
"Sáng chạy tây, rồi tối chạy đông
Đời người dông rổi tợ như ong
Trăm hoa hút nhuỵ về làm mật
Rốt cuộc thân tàn một kiếp không" (trich trong Kinh Ông A Nan Hỏi Phật Việc Cát Hung)
Trong Liên Tông Bảo Giám có ghi một đoạn:
Ông Văn Ngạn Bác làm chức Thái Thú ở Lạc Dương, từng thiết lễ cúng dường trai tăng . Lúc qua chùa Long An, chiêm ngưỡng lễ bái một Thánh tượng, chợt thấy tượng vở rơi xuống đất, làm cho tâm ông giảm bớt sự thành kính, chỉ nhìn rồi đi ra. Bên cạnh có một vị Tăng mới bảo:
- Sao ông không làm lễ ?
Ông đáp:
- Tượng đã vỡ, tôi lấy gì để lễ ?
Ông Tăng nói:
- Bậc Tiên Đức nói rằng:
Như đất đường quan
Người ta lấy làm tượng
Bậc trí biết là đất
Kẽ phàm bảo hình tượng
Về sau quan muốn đi
Lại đem tượng lấp đường
Tượng vốn chẳng sanh diệt
Đường cũng không cũ, mới
Ông nghe rồi tỉnh ngộ. Từ đó, tâm mộ đạo rất mạnh mẽ ( trang 252)
Đức Đệ Tứ Tăng Thống vẫn còn đó; Ngài Quảng Độ vẫn còn đó, chư Tăng vẫn còn đó, chư Phật mười phương ba đời vẫn còn đó, chỉ có tâm người giả dối ham muốn quyền thế cao sang nên bị sanh diệt như hình tượng nào có khác chi. Chạy theo hình tượng mà không biết nó nguyên từ đất ở đường quan, tượng dù có tan vở thì cũng không có gì luyến tiếc. Chỉ khi nào sự sanh diệt dừng lại nơi tâm ham muốn thì mới thấy được bước chân thật sự của mình. Nếu cái Không đã theo ta từ lúc bắt đầu, thì Giáo Hội hay Tăng Đoàn cũng chỉ là bóng bọt trong cái chơn không thôi, có gì mà lưu luyến ! Nhìn các anh em huynh Trưởng trong GHPGVNTN tuy không ai hơn Sư, nhưng tâm hồn họ chứa chan thấm nhuần mùi vị Đạo. Mộc mạc mà thành tâm, an bần mà lạc Đạo vì họ là những vị Phật vị lai. Còn Quí Vị thì bao giờ mới thức tĩnh?
Huệ Lộc
Tôn Thắng Đạo Tràng
Cẩn Bút
3/23/2014
Chú thích: Bài viết nầy có tham khảo từ ba bài viết khác:
1. THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 19.11.2013. Bạch Thư của Huynh trưởng Lê Công Cầu về tiến trình xuất hiện bản Cáo Bạch TừNhiệm của Đức Tăng Thống ký ngày 30.8.2013 – Chùa Từ Bi ở Dallas, chùa Viên Thông ở Atlanta, chùa Như Lai ở Denver, và Gia Đình Phật tử Nguyên Thiều tỏ thái độ với Hòa thượng Chánh Lạc
2. Quán Như – Chú Giải Đôi Lời Tự Bạch của Hòa thượng Thích Viên Định, nguyên Viện trưởng VHĐ GHPGVNTN, ngày 21 tháng 3, 2014
3. Hương Trần – Thư kính gừi HT Thích Viên Định cùng Chư Tăng để cùng suy nghiệm
A. Trích Nguyên Văn:
"- Giáo Chỉ số 10 thay đổi nhân sự Viện Hóa Đạo, không qua Đại hội lấy ý kiến của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương, không phù hợp Hiến Chương Giáo hội, Quy chế Viện Tăng Thống, Nội quy Viện Hóa Đạo, trái với tinh thần từ bi của Phật giáo và đạo đức của Đức Tăng Thống.
Khởi đầu là bản Cáo Bạch của Đức Tăng Thống, công bố vấn đề giới luật của chư Tă...ng, làm chấn động tinh thần Tăng, Ni và Phật tử. Tiếp đến, các thành viên Viện Hoá Đạo phổ biến những việc nội bộ Giáo hội ra ngoài làm cho dư luận càng hoang mang thêm nữa. Và sau cùng, với Giáo Chỉ số 10, rất bất ngờ, không tuân thủ theo nguyên tắc, điều khoản nào của Hiến Chương Giáo hội, như giọt nước cuối cùng làm tràn ly.
Không thể chấp nhận những việc làm vi phạm giới luật, trái Hiến Chương một cách nặng nề như thế, nên hầu hết chư Tăng, thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo, Ban Đại Diện các Tỉnh, Thành trong nước, các Giáo hội hải ngoại, các tổ chức Gia Đình Phật Tử trong và ngoài nước, không thể làm gì khác, ngoài việc đều lần lượt từ chức.
Từ trước đến nay, các thế lực vô minh luôn tìm cách đánh phá, gây phân hoá nhân sự để làm suy yếu GHPGVNTN. Với Giáo Chỉ số 10, có thể nói, các thế lực vô minh đã thành công trong việc triệt tiêu nhân sự và tiềm lực của GHPGVNTN.
Trong cương vị Viện trưởng Viện Hoá Đạo, với bổn phận và quyền hạn, theo Hiến Chương quy định, nhưng trên thực tế, bị hạn chế rất nhiều, nên tôi đã không thể điều hành tốt đẹp các Phật sự Giáo hội trong thời gian đảm trách.
Kính mong Chư tôn đức và Liệt quý vị hoan hỷ lượng thứ cho.
Kính bạch Chư tôn đức và thưa Liệt quý vị,
Kinh Phật dạy: “Tâm vô thường, pháp vô ngã”, việc tồn vong, biến dị là chuyện bình thường, không có gì đáng nói. Và những việc đã qua, cũng không nên nhắc lại làm gì, vì có thể bị cho là lời biện bạch, chỉ tăng thêm thị phi, bỉ thử. Đôi khi im lặng là sự trả lời hoàn hảo nhất.
Nhưng với trách nhiệm Viện trưởng Viện Hoá Đạo, trước khi rời chức vụ, tôi phải phúc trình sự biến động của Giáo hội để chư Tăng và Phật tử được biết. Lẽ ra, việc này phải được thực hiện sớm hơn, nhưng vì để tránh cho Giáo hội bị các thế lực vô minh, lợi dụng cơ hội đánh phá, nên đành im lặng đợi chờ.
Nay, sau hơn 3 tháng, dư luận đã tạm thời lắng dịu, mọi việc cũng tương đối rõ ràng. Nhất là đã có rất nhiều chư Tăng và Phật tử cùng đồng bào các giới nóng lòng gọi điện, nhắn tin hoặc trực tiếp đến gặp, muốn biết rõ về sự tình Giáo hội và nội dung Giáo Chỉ. Không thể phụ lòng, nên phải tường trình thay cho lời phúc đáp.
Nội dung Giáo Chỉ số 10, nêu ra nhiều lý do để ngưng chức, là những điều hoàn toàn không có, hoặc gượng ép một cách phi lý, không đúng sự thật:
- Việc mời chư Tăng từ Giáo hội Phật giáo Việt Nam gia nhập vào GHPGVNTN, trước đây đã từng có. Những vị ấy hiện vẫn đang giữ những chức vị rất cao và trọng yếu nhất trong GHPGVNTN. Điều đó không thể gọi là hoà hợp, hoà giải với Nhà cầm quyền Cộng sản.
- Không có việc hủy bỏ phiên họp nào như được đề cập trong Giáo Chỉ số 10 cả. Vì không ai có thể và có quyền huỷ bỏ cuộc họp của Giáo hội, nhất là trong lúc Đức Tăng Thống và Hội Đồng Lưỡng Viện đều có mặt đông đủ.
- Cá nhân Đức Tăng Thống không có thẩm quyền “cách chức” hay “phục chức” thành viên trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo cũng như trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương. Theo Hiến Chương qui định, muốn thay đổi nhân sự từ Tổng Vụ trở lên, phải có ý kiến của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương. Vì vậy, nếu không có Đại Hội, việc Viện trưởng Viện Hoá Đạo làm văn thư yêu cầu phục chức cho một thành viên trong Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo và trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương, đã bị cách chức, là điều hoàn toàn vô nghĩa, ngay cả trong trường hợp có chữ ký của Đức Tăng Thống, cũng không hợp pháp. Do đó, không có việc Viện trưởng Viện Hoá Đạo yêu cầu Đức Tăng Thống cùng ký tên chung trong Văn thư phục chức nào cả.
- Vụ án chùa Như Lai xãy ra đã lâu. Và năm 2000, toà án Hoa Kỳ cũng đã xét xử minh bạch. Đến năm 2003, trong Đại Hội Bất thường tại Tu Viện Nguyên Thiều, Đức Đệ Tứ Tăng Thống đã tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc vào thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương và đảm trách chức vị Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo, chiếu theo sự đề cử của chư Tăng các Giáo hội hải ngoại và Hoa Kỳ. Sau đó, các năm 2005, 2007 và 2009, mỗi nhiệm kỳ 2 năm, Đức Tăng Thống đều có Giáo Chỉ tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc tiếp tục giữ các chức vị trên. Đến năm 2011, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống lại tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc kiêm nhiệm thêm chức Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo. Việc tấn phong Hoà thượng Thích Chánh Lạc lên đảm trách các chức vị trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương và Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo, trước đây, hoàn toàn hợp pháp, theo đúng nguyên tắc Hiến Chương Giáo hội. Và việc đề cử Hoà thượng Thích Chánh Lạc thuộc trách nhiệm của chư Tăng các Giáo hội hải ngoại và Hoa Kỳ. Không phải việc của riêng ai, trong cũng như ngoài nước. Nhưng các thế lực vô minh đã dựng lại vụ án năm 2000 và khai thác việc này để đánh phá Giáo hội, góp phần, đưa đến sự đỗ vỡ hiện nay.
- GHPGVNTN có cơ sở trên khắp thế giới, nhưng chỉ có một cơ quan thông tin duy nhất là Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris. Cơ sở này lại nương nhờ vào trang nhà của một tổ chức khác, nên việc thông tin Giáo hội rất hạn chế. Viện Hoá Đạo có bổn phận và quyền hạn lập thêm một cơ quan thông tin thứ hai, hoặc nhiều hơn nữa, để phổ cập tin tức nhanh chóng, cung cấp kinh sách, tài liệu, hình ảnh Giáo hội đầy đủ là nhu cầu đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên, để đề phòng sự xuyên tạc, Viện Hoá Đạo đã trình bày việc mở trang nhà ghpgvntn.net rất rõ ràng và Đức Tăng Thống cũng đã tán đồng và cổ động, hối thúc nhanh chóng xúc tiến. Khi đã hoàn thành trang nhà, Đức Tăng Thống cũng đã hai lần duyệt qua và chỉ dạy thêm: “Nên cố gắng tìm tài liệu Giáo hội trước năm 1975, đưa vào cho đầy đủ”.
Tóm lại, những lý do ghi trong Giáo Chỉ số 10 đều là hoàn toàn suy diễn, phi lý, không đúng sự thật. Cũng vậy, tin tức đảo chánh Đức Tăng Thống, là điều hoàn toàn phi lý và không có. Vì Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần, không phải là người điều hành và quyết định mọi Phật sự Giáo hội, hơn nữa, nhiệm kỳ của Ngài là vĩnh viễn trọn đời. Đảo chánh Đức Tăng Thống tức là xé bỏ Hiến Chương Giáo hội, là tự mình loại ra, không còn là thành viên của GHPGVNTN nữa.
Cuối cùng, theo thiển nghĩ, Hiến Chương GHPGVNTN tuy chưa thể nói là bản Hiến Chương thật sự hoàn hảo, nhưng đó là sản phẩm trí tuệ của hàng chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội, và qua nhiều lần tu chính, nên nội dung Hiến Chương vừa hợp tình, hợp lý, rất hợp với trào lưu dân chủ và nhất là xứng hợp với giáo lý từ bi, giải thoát của đạo Phật.
Nếu các thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo hội các Châu lục, Ban Đại Diện các cấp Htheo đúng nguyên tắc, điều lệ của Hiến Chương Giáo hội, Quy Chế Viện Tăng Thống, Nội Quy Viện Hoá Đạo và tinh thần từ bi của Phật giáo để điều hành thì mọi Phật sự sẽ thành công tốt đẹp.
Kính bạch Chư tôn đức và thưa Liệt quý vị,
Sau Giáo Chỉ số 10, hầu hết chư Tăng trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương, Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo, các Giáo hội hải ngoại và các Ban Đại Diện Tỉnh Thành, các Thành viên, Đơn vị Gia Đình Phật Tử trong và ngoài nước đều nối nhau viết thư từ chức.
Tuy chư Tăng, bị ngưng chức cũng như từ chức, không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, nhưng vẫn là thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Và bản Hiến Chương GHPGVNTN là sản phẩm tinh thần quý giá của Tăng Tín đồ Phật giáo Việt Nam.
Nay chư Tăng sinh hoạt dưới hình thức Tăng Đoàn để tiếp tục sứ mạng bảo vệ Hiến Chương, phục hoạt GHPGVNTN, phục vụ nhân loại và dân tộc bằng giáo lý từ bi của Đức Phật và ủng hộ công cuộc vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam.
Vì bổn phận và trách nhiệm, tôi xin nguyện cùng chư Tăng sinh hoạt trong Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để tiếp tục phục vụ.
Và nhân đây, xin mượn lời Đức Đệ Tam Tăng Thống, thỉnh cầu chư Tăng trong và ngoài nước hãy bỏ qua những bất đồng, dị biệt, cùng nhau hoà hợp thanh tịnh, tương kính, tương thuận, tương giáo, tương sám, để kết hợp trong một Tăng Đoàn lớn mạnh. Được như vậy, việc hoằng pháp độ sanh, phục hoạt GHPGVNTN và hỗ trợ cho công cuộc vận động cho tự do dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam mới mong sớm được thành tựu.
Đất nước đang lâm quốc nạn, Phật giáo đang lâm pháp nạn. Dân tộc đang sống trong cảnh tối tăm, đau khổ. Kính mong chư Tăng vì tinh thần từ bi Bồ Tát Đạo, cứu giúp chúng sanh trong cơn khổ nạn, hãy đoàn kết một lòng, tạo sức mạnh, cùng nhau góp phần giải trừ quốc nạn và pháp nạn cho dân tộc Việt Nam, để toàn dân được sống trong cảnh an bình tự do hạnh phúc.
Kính mong Chư tôn đức dũ lòng từ bi hoan hỷ cho.
Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát
Chùa Giác Hoa, Sài gòn, ngày 19 tháng 3 năm 2014.
Tỳ kheo Thích Viên Định,
(Nguyên Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN)
******************************
B. Nhận Định:
Nói tới nói lui, ý Sư không chấp nhận Giáo Chỉ số 10 và không công nhận quyền hành chánh cách chức của Ngài Tăng Thống. Nghĩ cũng lạ, tại sao người tu hành như Sư mà nói chuyện không đúng lý ? Lúc ban đầu dung dưỡng bao che cho sư phạm trọng giới, sau đó ép buộc Ngài Tăng Thống phải cho lại sư phạm giới giử lại hai chức sau khi đã bị đuổi ra khỏi Giáo Hội, bây giờ lại nói là Tăng Thống không có quyền cho phục chức bất cứ ai. Trước đuổi ra khỏi Giáo Hội, sau kêu lại cho giử hai chức khác tức là một cách thức phục chức có gì khác với phục chức. Trong luật Phật, có bao đời một tăng phạm giới Ba La Di, đã bị đuổi ra khỏi Giáo Hội, rồi lại trở lại làm chức vị Cố Vấn cấp cao? Phật có dạy như thế không? Sư cùng sư Thiện H vào chổ quản thúc Ngài Quảng Độ gia tăng áp lực ép mãi, cho đến khi Ngài Quảng Độ phải buộc miệng nói :
” Sáng nay Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Hòa Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống y áo chỉnh tề đến đảnh lễ tôi và xin tôi chấp thuận đưa Hòa Thượng Chánh Lạc và Pháp Sư Giác Đức lên ngôi vị Cố Vấn Văn phòng II Viện Hóa Đạo, tôi đã giải thích cho hai Hòa Thượng nghe vì sao tôi phải tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc, nhưng hai Hòa Thượng vẫn một mực yêu cầu. Tôi nói rằng, giữa tôi và Ông Chánh Lạc nếu Quí Vị cứ chọn Ông Chánh Lạc mà không nghe lời tôi, thì tôi sẽ từ chức, quí vị muốn làm gì thì làm."
Và Ngài còn nói thêm với ông Cầu:
Ngài bảo : “Đem Cáo Bạch vào gấp, tôi đã từ chức thật sự rồi đó, sáng nay Hòa Thượng Viện Trưởng và Hòa Thượng Chánh Thư Ký lại đến yêu cầu tôi ra Quyết Định đưa Chánh Lạc và Giác Đức lên Cố Vấn, nhưng tôi không chấp nhận. Tôi nói bây giờ có Hòa Thượng Viện Trưởng đại diện cho Viện Hóa Đạo và Hòa Thượng Chánh Thư Ký đại diện cho Viện Tăng Thống, tôi xin từ chức, từ nay tôi không quan hệ gì đến vấn đề Giáo Hội nữa, tôi về tịnh tu…”
( Bạch Thư của ông Lê Công Cầu)
Lúc đó Sư cùng Sư Thiện H quả thật chứng đắc "vô ngôn" loại cao cấp rồi, đó là hai người cùng im lặng "tứ mục tương cố" hay "tâm ấn tâm" trong ánh mắt nhìn nhau mà thầm "khế hợp" cái gọi là " Tăng Thống tự truất phế" vậy thì sung sướng biết mấy, rồi gật đầu chọn ông Chánh L, khiến cho Ngài Quảng Độ phải gọi Ông Cầu mang giấy mực cho Ngài viết bản tuyên bố từ chức. Ông Cầu phải hồn phi phách tán, còn Ông Ái và Cô Ỷ Lan khóc cả ngày đêm, còn hai Sư thì lâng lâng như lên chín tầng mây. Có người còn mơ màng chiếc ghế Tăng Thống nở mặt nở mày với các sư quốc doanh, bắt tay cùng thủ tướng nước Việt Nam thì ôi vinh hạnh biết mấy cho vừa! Nhưng giấc mơ không có mấy ngày, dư luận thế giới tràn ngập khắp nơi , lại sợ mọi người quy cho mình tội "ép chúa, soán ngôi" thì nguy , cho nên mới dụng kế hoản binh trở lại yêu cầu Ngài Quảng Độ đáo nhiệm, mà không quên bêu xấu uy tín của Ngài Quảng Độ bằng cách cho Sư Không Tánh đánh lừa Ông Ái để thông báo sự đáo nhiệm cho mọi người trên thế giới biết ngay lập tức, trong khi Ngài Quảng Độ dặn một tuần sau mới cho biết. Tuy nhiên chưa hết sau đó tiếp tục làm thêm như trong Giáo chỉ số 10 nói:
- Đã khâm tuân việc tẫn xuất Hòa Thượng Chánh Lạc nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho vị Tăng phạm trọng giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản, đó là việc xưa nay chưa từng có."
Nay tóm lại các điều Sư đã phạm:
A. VỀ LUẬT PHẬT:
1. Ba La Di Vọng ngữ
2. Che dấu bênh vực cho sư phạm tội Ba la di nên phạm tội Tăng Tàn
3. Không tuân lời Phật, mang kẽ phạm tội tu chung trong Giáo Hội làm các tu sĩ vô tội phải mang lấy tội.
4. Chẳng những vậy mà còn lừa gạt Ngài Quảng Độ để lấy cho được chử ký vào văn bản lập sẳn để phục chức lại cho Ông Chánh L. Tức là Sư không còn tôn kính bậc Tăng Thống hay A Xà Lê là bậc Hoà Thượng của mình.
5. Ép bậc Tăng Thống Hoà Thượng hay A Xà lê phải rời khỏi chức vụ điều hành Giáo Hội
B. VỀ HÀNH CHÁNH: (căn cứ vào Giáo chỉ số 10, mọi người đều thấy)
1. Dung dưỡng bao che tu sĩ phạm giới làm sai lạc tôn chỉ kỷ cương trong lời mở đầu của hai Bản Hiến Chương năm 1964 và 1973 trong sự điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật, và nếp sống của các Tông Phái.
2. Dối gạt cấp trên là vị Tăng Thống: Đã khâm tuân việc tẩn xuất Hoà Thượng Chánh L nhưng lại làm văn bản minh xác chức vụ Phó Viện Trưởng Viện Hoá Đạo và Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cho tăng phạm giới nầy. Đồng thời đề nghị Tăng Thống cùng ký vào văn bản.
3. Xây dựng phe đảng trong Giáo Hội: Cùng với vài người thân tín quyết định những chuyện quan trọng của Giáo Hội mà không thông qua Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo cũng như không thỉnh thị ý kiến của Tăng Thống.
4. Lủng đoạn sự sinh hoạt Giáo Hội: Huỷ bỏ những phiên họp định kỳ, ra những Thông Bạch sai sự thật , vô hiệu hoá Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, là tiếng nói chính thức của Giáo Hội trong pháp nạn hiện nay.
5. Không tôn trọng hiến chương: Không kê khai và báo cáo lại Giáo Hội những động sản và bất động sản mà đàn việt dâng cúng để trả lại cho Giáo Hội.
6. Không tự bào chữa cho mình được sau khi nghe Giáo Chỉ số 10 vừa đăng tải và kéo dài hơn ba tháng. Sau đó chờ sau khi Tăng Đoàn mới ra đời rồi mới phản biện với những lý do có rất nhiều sự dối trá thầm ẩn như trong Chú Giải của một Cao Nhân Quán Như trong bài viết Quán Như – Chú Giải Đôi Lời Tự Bạch của Hòa thượng Thích Viên Định, nguyên Viện trưởng VHĐ GHPGVNTN, ngày 21 tháng 3, 2014, như sau:
"Chú Giải 2
Chưa bao giờ có Đại Hội Khoáng Đại GHPGVNTN Kỳ IX, khai mạc tại Chùa Giác Hoa, Sài gòn cả, bởi lý do là hoàn cảnh khó khăn, trong nước không thể tổ chức được cho nên GH ủy nhiệm cho VP 2 tổ chức tại Hoa Kỳ và chức vụ Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN là do Đức Đệ tứ Tăng thống tấn phong chứ không do Đại hội suy cử gì cả – như lời Thầy Nguyên Viện trưởng nói: “tôi được suy cử đảm trách chức vụ Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN”, nói thế là chưa chính xác.
Chú Giải 6
Viện dẫn Hiến chương để nói bàn về tính cách hợp pháp hay không hợp pháp của Giáo Chỉ số 10, đó là nói cái hệ Quả mà lẫn tránh cái Nguyên Nhân; Thế ai dẫn đầu phái đoàn VHĐ đến Thanh Minh Thiền viện, 3 lần 3 lượt đảnh lễ Đức Tăng thống, sám hôi, xin khâm tuân mọi việc. Thế nhưng, chưa được 5 canh giờ thì Nhóm Thầy Viện trưởng lại “quay thuyền GH sang hướng khác”, ngược lại ý chỉ Đức Tăng thống. Trong khi đó Đức Tăng thống đang trong vòng bị quản chế, không giao tiếp được với bên ngoài, thân cô, thế cô, nếu Ngài không dùng Giáo Chỉ để định hướng con thuyền GH đi đúng đường thì con thuyền sẽ phiêu lưu về đâu và trước sự sống còn của GH, trách nhiệm thuộc về ai. Trước biến cố xãy ra, sự sống còn của GH thì đức Tăng thống gánh vát trách nhiệm, trong khi đó, xử lý việc GH thì THầy Viện trưởng lại vận động nhiều người (gọi điện đi nhiều nơi với nhiều người) hè nhau từ chức gây áp lực để “bó tay” đức Tăng thống, ứng xử cái kiểu nầy thì quả là kẻ dưới ép người trên quá đáng rồi. Nói tóm lại, hệ quả chung quanh Giáo Chỉ số 10, cần nói bàn cái nguyên nhân gây nên hơn là viện dẫn cái hệ quả của nó, cái gút của vấn đề là ở chỗ đó.
Chú Giải 7
Sự thật là vận động nhiều người, bằng những kỷ xảo thế tục, mà cụ thể là dung 512 triệu tiền cứu trợ lót đường để kêu gọi cùng nhau từ chức, gây áp lực lên Đức Tăng thống.
Chú Giải 19… cùng nhau hoà hợp thanh tịnh…, để kết hợp trong một Tăng Đoàn lớn mạnh. Ví như để kết hợp trong một GHPGVNTN như xưa thì thật là vạn phúc cho lê dân biết mấy. Đàng nầy, để kết hợp trong một Tăng Đoàn lớn mạnh. Ô hô quả là lạy ông tôi ở bụi nầy.
Nghĩ sao vậy hả Thầy nguyên Viện trưởng, nói Đông, Tây, vòng vo để kêu gọi GH, Đức Tăng thống cùng vát xác xuống con THUYỀN THÚNG Tăng Đoàn để… trở thành PHÂN BAN của Phật giáo quốc doanh răng hè. Bởi vì Hiến chương GHPGVN (của nhà nước) qui định GHPGVN là tổ chức duy nhất đại diện cho PGVN trong và ngoài nước. Nầy nói cho mà nghe, Tăng đoàn thành hình,
bước thứ nhất là Giải thể GHPGVNTN
bước thứ 2 là trở thành phân ban – theo xách dép cho Ôn Trí Quảng, Thanh Phong…
bước thứ 3 là… tự xử (giải tán) vì “thố tử cẩu phanh”; “điểu tận cung tàn” mà thôi.
Còn bước thứ tư là: xú phương cũng một tiếng đồn hay khoan hông độ lượng cho lắm thì cũng “mua vui cũng được một vài trống canh” với bằng khen: có công trong việc xóa sổ GH Huyền Quang – Quảng Độ. "
7. Nóng nảy hấp tấp: Giáo chỉ số 10 vừa tuyên bố thì cùng ngày đó liền có sự trả đủa lại bằng thư từ chức, và rút ra khỏi Giáo Hội. Như vậy mà nói hy sinh hay phục vụ cho Giáo Hội. Đúng ra là dùng Giáo Hội cho sự tiến thăng danh vọng thì đúng hơn.
8. Muốn tiêu diệt luôn Giáo Hội: Vừa bước ra khỏi Giáo Hội lại lôi kéo thêm một đống sư tăng theo, cùng ký tên từ chức và rút lui khỏi Giáo Hội một lược. Sư là Viện Trưởng Viện Hoá Đạo chớ đâu phải là ngoại đạo hay chú tiểu mới vào tu, mà không biết sự nguy hiễm cho Gíao Hội và bản thân Ngài Quảng Độ trong tình trạng khẩn trương như thế. Dù cho Sư không biết được điều nguy hiễm đang xảy ra cho Ngài Quảng Độ , Chư Tăng , và Giáo Hội trong thời gian 3 tháng trước đây thì cũng chứng tỏ một sự chậm chạp và không hiễu gì hết của người lảnh đạo Viện Hoá Đạo. Như vậy thì đâu phải là người xứng đáng mà Ngài Quảng Độ giao việc cho làm.
Nay còn lại ba điều Sư muốn nói:
Điều 1: Trích nguyên văn "Cũng vậy, tin tức đảo chánh Đức Tăng Thống, là điều hoàn toàn phi lý và không có. Vì Đức Tăng Thống chỉ lãnh đạo tinh thần, không phải là người điều hành và quyết định mọi Phật sự Giáo hội, hơn nữa, nhiệm kỳ của Ngài là vĩnh viễn trọn đời. Đảo chánh Đức Tăng Thống tức là xé bỏ Hiến Chương Giáo hội, là tự mình loại ra, không còn là thành viên của GHPGVNTN nữa. "
******************
Nhận định điều 1: Đảo chánh thì không có, nhưng những việc các Sư đã làm để ép đẩy Ngài Quảng Độ vào chổ tự làm giấy từ chức và bị đưa thân vào chổ nguy hiễm chính là ý đồ truất phế. Trong Kinh Bách Dụ có một câu chuyện về Chứng Minh Sự Thật như sau:
Có một nhóm người ngồi trong nhà bình luận phẩm hạnh của một người khác. Trong nhóm ấy có người nói rằng :
- Người đó cái gì cũng hay cả , chỉ có hai điều không tốt: điều thứ nhất hay nổi sân; điều thứ hai là chạm việc hay lỗ mãng.
Đang lúc y nói thế, bất ngờ người kia đi ngang qua cửa nghe lọt vào tai, lập tức nổi giận đùng đùng nhảy bổ vào nhà vừa đánh y vừa nói:
- Ta nổi sân hối nào ? Ta lỗ mãng với ai?
Bấy giờ mọi người đều nói:
- Cử chỉ của ngươi hiện tại chẳng đủ chứng minh cho sự sân hận và lỗ mãng của ngươi sao?
Sư có hiễu là tại sao Ngài Quảng Độ biết là nhóm người của Sư đã âm mưu truất phế Ngài rồi chứ gì? Hay gọi là "đảo chánh " thì cũng chẳng khác gì nhau. Các hành động đánh phá Giáo Hội và ép ngặt Ngài Quảng Độ từ chức vừa qua của mấy Sư đó, chứng tỏ có ý đồ truất phế Tăng Thống từ lâu rồi. Còn nữa, câu nói "Xoá hết làm lại" nghĩa là gì? Có phải là một mô hình Giáo Hội hoàn toàn mới và không chấp nhận cái củ? Cái củ là Ngài Quảng Độ, là Giáo Hội củ bị xóa?
Trong Kinh có nói:" Vừa có tâm niệm nhỏ nhiệm đã đầy đủ Ba Ngàn Đại Thiên Thế giới" Như không muốn người biết thì đừng làm, nếu có làm thì trước sau gì ai cũng biết. Sư và sư Thiện H có ý đồ truất phế bằng cách làm cho Ngài Quảng Độ tự mình "tự truất phế" mà không có một lời nào ngăn cản, thế là chứng tỏ ý đồ "đảo chánh " rồi. Phật dạy: " Tâm là nguồn tạo ra mọi tội lỗi". Các sư hằng ngày không lo dưởng tánh tu tâm, cho nên mới xảy ra chuyện phá Đạo như vậy.
Điều 2: " Tuy chư Tăng, bị ngưng chức cũng như từ chức, không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, nhưng vẫn là thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất." ?
*************
Nhận định điều 2: Có lòng nhớ kính và có ý muốn trở lại Giáo Hội Mẹ là đáng quý và đáng khen ngợi. Tuy nhiên cũng không nên tự ý cưởng ép quyết định đơn phương mà bất chấp luật lệ thế gian cũng như Luật Tạng do Phật giảng dạy. Hôm trước, cả đám người rầm rộ ký tên công bố từ bỏ Giáo Hội để thành lập ra Tăng Đoàn mới; rồi hôm nay lại tự quyết định cho mình vẩn còn là thành viên trong GHPGVNTN? Không biết mấy ông tu hành kiểu nào mà càng lúc càng mê muội. Ông Sư chi bửa nay thì nói thế nầy, rồi ngày mai thì nói thế khác? Của mình thì nói của người ta, còn của người ta thì nói là của mình. Đầu óc điên đão tưởng như thế, rồi lấy cái gì làm cái tâm tu hành, tụng kinh, và Niệm Phật? Như vậy rồi cái danh xưng Tăng Đoàn mới nầy tính làm sao, có ích lợi gì cho ai không? Trong Kinh Bách Dụ, có một câu chuyện Mua Lừa như sau:
" Thuở xưa có một số tín đồ cử hành cuộc đại hội, họ cần dùng nhiều chén bạc. Vị giáo chủ của họ bảo đệ tử ra chợ mời một người thợ đồ sứ về làm. Đệ tử vâng lệnh ra đi tìm thợ. Đi giữa đường bọn họ gặp được người thợ đang dắt một con lừa, trên lưng con lừa chở rất nhiều đồ sứ đem ra chợ bán. Lừa sẩy chân té quỵ xuống bao nhiêu đồ sứ trên lưng đều rơi xuống đất và bể tan tành. Người thợ đồ sứ buồn rầu khóc lóc mãi. Bọn họ thấy thế làm lạ hỏi rằng:
-Tại sao ngươi khóc?
Người thợ đáp:
- Tài nào tôi không khóc, bao nhiêu đồ sứ công phu làm trong một năm, nay định chở đem ra chợ bán, nào ngờ con lừa sẩy chân, trong khoảnh khắc bể nát cả. Như thế không đáng rầu rĩ ư?
Bọn họ nghe nói, mừng thầm nghĩ rằng:
- Con lừa nầy giỏi quá, công khó người thợ làm một năm trời, thế mà chỉ nháy mắt nó có thể làm cho tiêu tan hết.
Nghĩ xong, bọn họ thương lượng với người thợ để mua con lừa (thay vì là mướn người thợ về). Người thợ đang tức giận con lừa ngu si và muốn tống nó đi, nên vội vã bán ngay.
Bọn họ cởi lừa về ra mắt vị giáo chủ. Vị giáo chủ mới hỏi rằng:
- Thợ đâu? Tại sao các chú không thỉnh người thợ về mà lại đem con lừa nầy lại đây?
Bọn đệ tử trả lời:
- Thưa thầy, bản lảnh con lừa nầy không vừa đâu! còn lớn hơn người thợ đồ sứ, vì người thợ làm trong một năm mới thành một số đồ, mà chỉ trong giây lát một mình nó phá tan hết. Có giỏi không?
Vị giáo chủ lắc đầu lia lịa và nói rằng:
- Sao các chú dại dột thế ? Con lừa nầy trong khoảnh khắc có thể làm bể biết bao nhiêu món đồ sứ, nhưng dù trải trăm vạn năm nó cũng không thể làm ra được một cái. Thôi các chú trả lừa lại cho người ta.
Các đệ tử đi tìm người thợ trả lừa lại, nhưng người chủ không nhận. Bọn đệ tử cũng không biết phải làm sao. Con lừa ngu si khốn khổ nầy cuối cùng bị làm thịt, thật là tội nghiệp. "
Ấy ở đời ai cũng muốn mình là người quan trọng như người thợ, nhưng ở việc thì lại chọn việc của lừa, thế mới khổ thân.
Nếu muốn công nhận là người của GHPGVNTN, Sư phải có sự chấp nhận của Đức Tăng Thống và Viện Hoá Đạo của GHPGVNTN. Tu chung với những người đã phạm giới, thì chư Tăng trong Giáo Hội PGVNTN sẽ bị ảnh hưởng về sự tu tập và giới đức, và ngay cả Ngài Quảng Độ cũng không thể lảnh hết dùm nổi đâu. Trong thời Phật, Ngài Tân Đầu Lư vì tham lấy cái bát của ngoại đạo treo trên cột ngà voi cao xa, nên trổ thần thông thòng tay dài ra lấy. Vì vậy mà bị Phật trách phạt phải ra khỏi cõi Diêm Phù Đề nầy mà độ chúng, đồng thời còn không cho nhập Niết Bàn. Những đời sau nầy, nếu là người tu hành chân chính thì ai dám sửa luật? Tốt hơn, Sư làm bản tự kiểm thảo, rồi xin trả giới lại thì may ra được chấp nhận trở về. Việc đó cần bàn riêng với Ngài Tăng Thống và VHĐ. Tu hành quí ở chổ kiến tánh minh tâm. Xênh xoang áo mảo cân đai để làm gì, rồi một đời cũng phí qua, vì rỏ ràng nơi chổ dụng mà có hai đường mê ngộ, tà chánh khác nhau từ lúc vừa phát tâm:
"Trong hang sư tử sinh sư tử
Dưới núi chồn hoang sinh ra chồn" (thơ của người xưa)
Ở đây có một việc quan trọng là lời nhắn gởi với Sư và toàn thể Tăng Đoàn mới nầy (TĐGHPGVNTN) là đừng dựa vào câu nói :" Tuy chư Tăng, bị ngưng chức cũng như từ chức, không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, nhưng vẫn là thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất." rồi không chịu giao trả động sản cũng như bất động sản do đàn việt hiến cúng trước khi quí vị ký tên ra khỏi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Ngài Quảng Độ. Đây là câu nói vi phạm Tội Ba La Di của luật Tạng vì dung chứa và bao hàm sự trộm cắp của Thường Trụ Tam Bảo, đồng thời chính câu nói nầy phá tan hết đức độ và hạnh nguyện của những ai cố ý dùng nó vào việc lưu giử tài sản của Giáo Hội mẹ. Đó cũng là nguyên nhân đoạ vào địa ngục kiếp nầy hay kiếp sau. Nếu còn quý mến GHPGVNTN thì phải tuân hành theo Hiến Chương thì mới gọi là lời nói không xảo quyệt.
Vậy các Sư trong Tăng Đoàn mới nầy (TĐGHPGVNTN) phải lập tức trao trả tài sản lại cho Giáo Hội Ngài Quảng Độ để tránh sự vi phạm điều 37, chương 10 của Hiến Chương Giáo Hội và tránh được trọng tội trộm cắp của Tam Bảo, nhất là căn chùa Kim Quang mà sư Thiện H đang giữ đó. Căn chùa nầy là tài sản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) mà sư Thiện H cứ giữ hoài không chịu trả lại, đó là sự trái đạo lý tu hành, trái Hiến Chương, trái phép nước luật vua, trái lương tâm, trái giới hạnh Phật dạy. Người người nghe nói, ai cũng lạnh lùng kinh sợ khi nghĩ về giới đức của Tăng Đoàn mới nầy ! Rồi sách vở sau nầy cũng ghi lại nữa, chớ có phải bỏ qua đâu ! Xem những kinh sách thường ghi lại những chuyện xấu tốt của các thiền sư thì biết.
Người biết tu hành không nên dùng lời nói văn hoa mà che đậy chổ lỗi lầm. Hạt giống khi đã gieo xuống đất thì dù có nói thế nào đi nữa, nó vẫn mọc cây nở hoa và đơm trái. Việc làm trái đạo sẽ tạo ra ác nghiệp; việc làm thiện pháp sẽ mang ta đến hạnh phúc cho mình trong hiện nay và cả nhiều kiếp về sau. Dùng lời nói để che dấu điều tội lỗi thì tạo gây thêm tội lỗi chớ nào có giãm được chút ít gì đâu. Cho nên nói tu là sự thực hành để khám phá ra sự ràng buộc và thoát ra khỏi ràng buộc. Thoát ra khỏi ràng buộc thì gọi là Giải Thoát hay Niết Bàn. Giới là vủ khí bảo hộ thân, pháp là phương hướng suy tầm, trí tuệ là phương tiện phá chướng. Việc tu thì không tu, mà từ sáng đến chiều cứ suy nghĩ những lời nói ba hoa bóng bẩy để che dấu lỗi mình, cho nên mới gọi là Nhà Ma Động Quỷ. Nay bị ràng buộc việc trước, lại càng thêm trói cột việc sau. Cứ tiếp tục gạt mình gạt người, mê mờ thêm chồng chất cho nên tâm chí yếu hèn bị ma vương lôi kéo, không sức phản kháng , thì sao gọi là người mặc áo ca sa? Còn nói chi đến giới hạnh trong đời nầy, kễ như là phế bỏ!
Điều 3: "Việc mời chư Tăng từ Giáo hội Phật giáo Việt Nam gia nhập vào GHPGVNTN, trước đây đã từng có. Những vị ấy hiện vẫn đang giữ những chức vị rất cao và trọng yếu nhất trong GHPGVNTN. Điều đó không thể gọi là hoà hợp, hoà giải với Nhà cầm quyền Cộng sản."
***********************
Nhận Định điều 3: Nếu như mời bất cứ ai gia nhập vào GHPGVNTN mà có sự đồng ý của Tăng Thống, thì theo đúng Bản Hiến Chương và Luật Phật. Còn nếu mời chư Tăng từ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam mà không có phần đồng ý của Tăng Thống, tức là tự ý hoà hợp, hoà giải với nhà cầm quyền Cộng Sản. Và Sư đã vi phạm Hiến Chương, phần mở đầu "Lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất" như trong Giáo Chỉ nói.
Bài viết nhận định về: "Đôi Lời Tự Bạch của HT Thích Viên Định, nguyên Viện Trưởng VHĐ GHPGVNTN" đến đây là hết. Kính chúc Sư nhiều may mắn.
Cổ nhân có lời thơ:
"Sáng chạy tây, rồi tối chạy đông
Đời người dông rổi tợ như ong
Trăm hoa hút nhuỵ về làm mật
Rốt cuộc thân tàn một kiếp không" (trich trong Kinh Ông A Nan Hỏi Phật Việc Cát Hung)
Trong Liên Tông Bảo Giám có ghi một đoạn:
Ông Văn Ngạn Bác làm chức Thái Thú ở Lạc Dương, từng thiết lễ cúng dường trai tăng . Lúc qua chùa Long An, chiêm ngưỡng lễ bái một Thánh tượng, chợt thấy tượng vở rơi xuống đất, làm cho tâm ông giảm bớt sự thành kính, chỉ nhìn rồi đi ra. Bên cạnh có một vị Tăng mới bảo:
- Sao ông không làm lễ ?
Ông đáp:
- Tượng đã vỡ, tôi lấy gì để lễ ?
Ông Tăng nói:
- Bậc Tiên Đức nói rằng:
Như đất đường quan
Người ta lấy làm tượng
Bậc trí biết là đất
Kẽ phàm bảo hình tượng
Về sau quan muốn đi
Lại đem tượng lấp đường
Tượng vốn chẳng sanh diệt
Đường cũng không cũ, mới
Ông nghe rồi tỉnh ngộ. Từ đó, tâm mộ đạo rất mạnh mẽ ( trang 252)
Đức Đệ Tứ Tăng Thống vẫn còn đó; Ngài Quảng Độ vẫn còn đó, chư Tăng vẫn còn đó, chư Phật mười phương ba đời vẫn còn đó, chỉ có tâm người giả dối ham muốn quyền thế cao sang nên bị sanh diệt như hình tượng nào có khác chi. Chạy theo hình tượng mà không biết nó nguyên từ đất ở đường quan, tượng dù có tan vở thì cũng không có gì luyến tiếc. Chỉ khi nào sự sanh diệt dừng lại nơi tâm ham muốn thì mới thấy được bước chân thật sự của mình. Nếu cái Không đã theo ta từ lúc bắt đầu, thì Giáo Hội hay Tăng Đoàn cũng chỉ là bóng bọt trong cái chơn không thôi, có gì mà lưu luyến ! Nhìn các anh em huynh Trưởng trong GHPGVNTN tuy không ai hơn Sư, nhưng tâm hồn họ chứa chan thấm nhuần mùi vị Đạo. Mộc mạc mà thành tâm, an bần mà lạc Đạo vì họ là những vị Phật vị lai. Còn Quí Vị thì bao giờ mới thức tĩnh?
Huệ Lộc
Tôn Thắng Đạo Tràng
Cẩn Bút
3/23/2014
Chú thích: Bài viết nầy có tham khảo từ ba bài viết khác:
1. THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 19.11.2013. Bạch Thư của Huynh trưởng Lê Công Cầu về tiến trình xuất hiện bản Cáo Bạch TừNhiệm của Đức Tăng Thống ký ngày 30.8.2013 – Chùa Từ Bi ở Dallas, chùa Viên Thông ở Atlanta, chùa Như Lai ở Denver, và Gia Đình Phật tử Nguyên Thiều tỏ thái độ với Hòa thượng Chánh Lạc
2. Quán Như – Chú Giải Đôi Lời Tự Bạch của Hòa thượng Thích Viên Định, nguyên Viện trưởng VHĐ GHPGVNTN, ngày 21 tháng 3, 2014
3. Hương Trần – Thư kính gừi HT Thích Viên Định cùng Chư Tăng để cùng suy nghiệm
Vài ngày trước tôi có đọc bài "Đôi Lời Tự Bạch Của Hoà Thượng Thích Viên Định Nguyên Viện Trưởng VHĐ GHPGVNTN" .... Thú that đọc tới đoạn thầy Viên định nhận địng Đức Tăng Thống chỉ lảnh đạo tinh than , còn điều hành từ trên tới dưới do Viện Hoá Đạo tức do Thầy Viên Định điều hành tất cả ..... Đọc xong tôi chỉ ngồi cười cho cái lý luận rất ư ấu trỉ .... Thầy Viên Định nghĩ sao mà phát ngôn như thế ! Thầy nghỉ Thầy là ai ? Trên thế giới này các vị chính khách ai biết Thầy ! ..... Thật hàm hồ .
ReplyDeleteTri ân Đạo hữu Huệ Lộc đả bộc bạch thay đôi lời cho đại đa số người con Phật thầm lặng chúng tôi . Thầy Viên Định nên đọc bài này it nhất 10 lần để mà suy ngẫm rồi sau đó mau mà qùi dập đầu sám hối với Đức Tăng Thống thì họa may Thầy bớt tội lổi .
Ông Sư Thích viên Định này ổng nghỉ không ai nhìn ra cái trò đê tiện của ông ta và nhóm tăng dị giáo hay sao chứ !!!!!!! Im lặng đở nhục hơn ông Sư thích Viên Định à , phản Thầy Tổ , phản Giáo hội truyền thừa còn nhơ nhớp ngụy biện thật trơ trẻn vô liêm sỉ
ReplyDeleteQUẢ ĐÚNG LÀ HÒA THƯỢNG THÍCH VIÊN ĐỊNH TÂM BẤT THIỆN , TRÍ LOẠN BẤT ĐỊNH RỒI
ReplyDelete