Huệ Lộc- Nhận định về bài viết "Mục Đích Sinh Hoạt Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất" của Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ngày 20/2/2014. http://www.ghpgvntn.net/muc-dich-sinh-hoat-tang-doan-phat-giao-viet-nam-thong-nhat/
Cơ sở lý luận và mục đích sinh hoạt của Tăng Đoàn mới nầy nằm vỏn vẹn trong phần mở đầu của phần tuyên cáo, trích nguyên văn :" Như quý vị đã biết, thời gian qua, GHPGVNTN đã bị biến tướng, không còn hoạt động đúng theo Hiến Chương giáo hội, Quy chế Viện Tăng Thống, Nội Qui Viện Hoá Đạo, thiếu tinh thần lục hoà, từ bi Phật Giáo. Nhất là có những quyết định độc đoán, đi ngược lại xu thế vận động tự do, dân chủ, nhân quyền Việt Nam". Đây là một lối nói " xảo ngôn ỷ ngử" che dấu điều tốt của Ngài Quảng Độ và vu khống điều xấu lại cho Ngài Quảng Độ " biến tướng, độc đoán, đi ngược lại xu thế vận động tự do dân chủ, nhân quyền Việt Nam.
Giới Luật và Tăng Thống là Linh Hồn của Tăng Đoàn. Nay Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không có Giới Luật và không có Tăng Thống thì lấy cái gì làm "lảnh đạo tinh thần tôn giáo"? Kinh Di Giáo Đức Phật đã nói: Giới luật còn thì Đạo Phật còn. Sở dĩ Phật Pháp chia chẽ ra mười Tôn, tám Giáo mà không mất đi tính chất thuần túy trí tuệ và từ bi cứu khổ của đạo Phật, vì trong mỗi Tôn mỗi Giáo, luật giới do Phật chế ra được giử gìn không khiếm khuyết nên bảo đảm sự thanh tịnh trong Giáo Hội, cũng như bảo đảm sự chứng ngộ Giáo Pháp của các hành giả. Vì thế mà suốt hơn 2500 năm trôi qua, mọi tu sĩ chơn chánh theo đuổi sự tu học trong từng Tôn, từng Giáo nầy đều đạt đến kết quả ích lợi giải thoát khỏi đau khổ. Do đó mà biết y pháp cung kính phụng hành, duy trì và bảo toàn giới luật Nhà Phật là điều tối quan trọng hàng đầu cho mọi tổ chức Giáo Hội cũng như mọi Tăng Đoàn Phật Pháp vì đó là nơi sinh ra mọi thanh tịnh và mọi oai đức của người tu hành, là những người xứng đáng thọ lảnh sự cúng dường của hai cõi nhân, thiên. Đó cũng là tại sao Giáo chỉ số 10 của Ngài Quảng Độ được ban hành nhầm mục đích thanh tịnh chư Tăng và trang nghiêm Giáo Hội. Nay một Tăng Đoàn như Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đang trên con đường thành lập mà lại không tuân thủ luật giới của Nhà Phật thì sao gọi là một Tăng Đoàn Phật Giáo? Sau đây là sự phân tích ra 2 chổ nguy hiểm và 7 điểm che lấp của Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
I. Chổ nguy hiểm thứ nhất: Do sự sân hận và quyền lợi mà tách ra
a. Lý do để thành lập ra nhóm Tăng Đoàn mới không phải vì phúc lợi độ sanh, mà là từ sự sân hận tật đố và sự ham muốn chức vụ quyền lợi trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của một số tăng sư phá giới và một số tăng sư khác có dã tâm phá hoại GHPGVNTN. Trong khi Ngài Quảng Độ dùng thân Ngài để hy sinh và che chở cho Giáo Hội, và Ngài lại bị quản thúc nghiêm nhặt tại Thanh Minh Thiền viện thì đám sư nầy cấu kết cùng sư V Đ, sư C L, cư sĩ Giác Đ để âm mưu truất phế, sự việc không thành, bỏ chạy, từ chức, rồi vu khống Ngài Quảng Độ là "có những quyết định độc đoán , đi ngược lại xu thế vận động tự do dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam", đồng thời nói xấu lại chư tăng trong Giáo Hội là "biến tướng, không còn hoạt động theo Hiến Chương Giáo Hội". Nếu lời nói nầy có trước khi âm mưu truất phế Tăng Thống được thực hiện, hoặc trước khi có thủ đoạn lừa đảo Vị Tăng Thống để gạt lấy chử ký, hay trước khi cả nhóm sư tăng nầy chạy ra khỏi Giáo Hội và trước khi Giáo Hội bị đánh phá, thì đây là một tiếng nói có giá trị. Tuy nhiên điều nầy không bao giờ xảy ra ! vì sao? vì nhóm tăng sư nầy, sau khi ý đồ "truất phế" vị Tăng Thống không thành, tức giận bỏ chạy ra khỏi Giáo Hội của Ngài Quảng Độ, nhằm mục đích phá tan Giáo Hội. Nhưng sự việc thất bại, rồi bây giờ cất tiếng vu khống lại Ngài Quảng Độ là "độc đoán", còn Giáo Hội là "Biến tướng". Đây là loại Vọng Ngử của những tăng sĩ phá giới, và khinh thường luật Phật. Đây cũng là tội Ba La Di vì cố tình vọng ngử. Còn lại đứng trước chư Lịch Đại Tổ Sư mà mở ra lời nầy thì có lỗi rất nặng đối với Chư Phật và Bồ Tát. Có lẽ họ đã nghỉ rằng Phật Pháp Tăng không Thường Trụ, và luật nhân quả không có thật ? Chúng Long Thiên quỷ thần, thiên đường, địa ngục, thiện ác ... cho đến lời dạy của ba đời chư Phật cũng không thật???? Đối với loại tăng hoại pháp như thế thì bốn bộ chúng có quyền xử phạt, như trong kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Trường Thọ, Đức Phật nói với Ngài Ca Diếp Bồ Tát rằng:
"... Nếu người (Tỳ kheo và Tỳ Kheo Ni) nào không tu học ba phẫm Pháp nầy (Giới, Định, Huệ) lười biếng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp, thời vua , quan, 4 bộ chúng phải nên nghiêm trị.
-Nầy Ca Diếp! như vậy các vua , quan, 4 bộ chúng có mắc tội chăng?
Ca Diếp Bồ Tát thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, Không!
Phật nói:
- Các vua, quan , và 4 bộ chúng ấy còn không có tội, huống là Như Lai."
Đó là lời Phật thuyết, trừng trị tăng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp là bổn phận của mọi người Phật tử.
Vậy bảo rằng Ngài Quảng Độ "độc đoán" chỉ vì lý do trong Giáo Chỉ số 10 có sự tẫn xuất và cất chức hai sư phạm trọng giới, thì ngôn từ "độc đoán" nầy bị dùng sai lầm và gây bất công cho Ngài Quảng Độ. Chử dùng đúng nhất phải là "sáng suốt" thay vì là "độc đoán".
b. Còn nói Ngài Quảng Độ "đi ngược xu thế vận động tự do dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam" cũng là lời nói vọng ngôn dối trá, Vì sao? Ngày nhân quyền quốc tế trong tháng hai 2014 vừa qua, chính Ngài Quảng Độ và cư sĩ Lê Công Cầu mặc dù còn đang "bị tù" nơi Thanh Minh Thiền Viện và tại tư gia, bị những quản thúc nghiêm nhặt, nhưng hai người vẫn tranh đấu gởi tiếng nói đấu tranh dân chủ nhân quyền cho 90 triệu người dân Việt Nam đến hội Nhân Quyền Quốc Tế bằng hai đoạn ghi âm. Đó là những âm thanh kim cang vững chắc và uy vũ. Tất cả mọi người đều được nghe tiếng nói chân thành và tha thiết của hai người nầy như là chứng nhân lịch sử. Âm thanh chân lý bất diệt của hai nhân vật nầy hiện nay được thu âm trên toàn thế giới làm cho lủ cộng sản kinh hoàng và vô cùng khổ sở vì mất mặt trước công luận thế giới. Trong khi đó nhóm người Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mới nầy lại được tự do sinh hoạt đi lại khắp nơi trong nước, tới lui trước mặt bọn cộng sản như chổ không người, mà chẳng thấy một người nào trong nhóm của họ dù là sư, dù là ni, dù là cư sĩ, dám đứng lên hô hào cho tự do dân chủ và nhân quyền dù đó là một tiếng nói nhỏ chừng bằng hơi thở của con muổi !!!!! Vậy mà hôm nay, nguyên nhóm Tăng Đoàn nầy ăn to nói lớn, oang oang tuyên bố ngang ngược, vu khống, che lấp công hạnh của Ngài Quảng Độ , ông Cầu , ông Ái... mà không biết tàm quý, không biết ngượng miệng, không biết xấu hổ. Gạt gẫm thầy tổ đã đời, bây giờ tiếp tục gạt gẫm tới quần chúng Phật tử trong và ngoài nước. Thật rỏ là một "Tăng Đoàn vô minh" trầm trọng và phá giới kinh khủng còn hơn cả nhóm Lục Quần Tăng lúc xưa vạn lần, chưa từng thấy trong lịch sử Phật giáo đấu tranh. Nhìn thấy hình ảnh những người chứa đầy những mưu mô gian trá và những thủ đoạn xảo quyệt trong bức hình làm lễ tưởng niệm trong ngày 20 tháng 2 năm 2014, tại tổ đình Thập Tháp, mà không khỏi chua sót vô cùng cho di sản tuệ nghiệp mà Đức Phật đễ lại cho đoàn hậu tấn ! Nhớ lại khi xưa, có lần ma vương đến bảo Phật rằng :" Trong thời mạt pháp, Ta sẽ cho ma dân cạo trọc đầu, mặc áo cà sa, giả làm kẽ tu hành để phá hoại Pháp của ông và làm cho Giáo Hội tan vở". Đức Phật mới trả lời :" Không có gì phá hoại được Chánh Pháp của Ta, và các đệ tử của Ta sẽ bảo vệ Giáo Hội". Ma vương thấy không làm gì được nên trở về kêu gọi ma dân thay phiên theo phá người tu hành từng đợt.
c. Nói rằng GHPGVNTN hay chư tăng trong GHPHVNTN đã "biến tướng, không theo đúng bản Hiến Chương", là một lối nói hồ đồ, vu khống, và xảo ngôn. Muốn kết luận Giáo Chỉ số 10 có theo đúng bản Hiến Chương hay không, hoặc có nên thành lập Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hay không, hảy nghiên cứu bảy điểm che lấp sau đây thì rỏ :
1. Điểm che lấp thứ 1: Có Điều Nào Ngăn Cấm?
Trong suốt 2 bản Hiến Chương năm 1964 và 1973, có điều khoản thành văn nào ngăn cấm và không cho Ngài Quảng Độ cất chức bất cứ thành viên nào khi bị phạm lỗi với Giáo Hội không?
2. Điểm che lấp thứ 2: Nếu có vi hiến thì là điều thứ mấy?
Còn nếu gượng ép khăng khăng cho rằng Ngài Quảng Độ vi hiến, thì hỏi: Vi hiến Điều thứ mấy, Chương nào? trong Hiến Chương nào? Có văn bản nào xác định?
3. Điểm che lấp thứ 3: Không thể vi phạm cả hiến chương
Nếu không tìm ra được Điều nào khả dĩ bảo là có vi hiến, có thể ông cho rằng Ngài Quảng Độ vi hiến toàn thể Hiến Chương cho chắc ăn chớ gì? Tiếc thay lập luận nầy cũng không đứng vững, vì Hiến Chương bao gồm các Chương và Điều, mà không có Chương nào hay Điều nào bị vi phạm, thì sao gọi là vi phạm toàn thể Hiến Chương. Giống như một người đang có một đời sống lương thiện, không tạo bất cứ một lỗi lầm nhỏ nào với pháp luật, nay lại kết tội người đó vi phạm pháp luật, là sự vô lý.
4. Điểm che lấp thứ 4: Các Tăng Sư cũng như cư sĩ trong Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã tách ly Giáo Hội thì bắt buộc phải trả lại "Động Sản và Bất Động Sản Hiến Cúng" cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, theo bản Hiến Chương năm 1964 và 1973.
Hảy xem sau ngày 9 tháng 12, 2013, chỉ một ngày sau khi Giáo Chỉ số 10 vừa ban hành thì có một đám sư Tăng cùng phe sư V Đ, sư V L, ông C L xúm nhau tuyên bố từ chức, rồi từ bỏ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ra ngoài lập ra tổ chức mới gọi là Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Nhóm mới nầy là một tổ chức độc lập, hoàn toàn không còn dính líu và tuỳ thuộc vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Ngài Quảng Độ. Lại nữa, sau khi làm đơn xin ra khỏi Giáo Hội thì các vị nầy không mang tất cả các động sản và bất động sản do Đàn Na Tín Chủ đã hiến cúng, cũng như tiền cứu trợ khắp mọi nơi gởi về, trước ngày 9 tháng 12, năm 2013 mà hoàn trả lại cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Ngài Quảng Độ làm Tăng Thống. Như vậy là các vị đó đã vi phạm Điều thứ 30, Chương Thứ 9 Tài Sản, của bản Hiến Chương ngày 04-01-64, các nhà sư đó cũng vi phạm luôn cả Điều thứ 37, Chương thứ 10 Tài Sản, trong Hiến Chương Ngày 12-12-1973. Theo Luật nhà Phật, việc làm của các tu sĩ cũng như các cư sĩ trong Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã vi phạm nghiêm trọng giới luật "Trộm Đạo" của Thường Trụ Tam Bảo và của Chúng Tăng trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Đây là tội Ba La Di có nhân chứng và vật chứng không thể chối cải được. Những Tăng sư cùng theo chung nhóm mặc dù không làm, nhưng cũng đồng phạm tội như trong Kinh Đại Niết Bàn Phật giảng, bởi vì cùng xử dụng, tiêu dùng, sinh hoạt, thuyết giới chung với người phạm giới.
Kinh, Luật nhà Phật đã nói rỏ ràng về giới Trộm Đạo của Thường Trụ Tam Bảo và của Chúng Tăng nầy, xin trích lại một đôi phần trong Sa Di Luật Giải làm căn cứ cho bài viết hôm nay:
4-1. Kinh Tam Muội: "Tội người trộm lấy vật của chúng Tăng, nặng hơn tội người giết tám vạn bốn ngàn cha mẹ" (Sa Di Luật Giải, trang 55)
4-2. Kinh Đại Luật: "Bằng trộm những vật trong Tháp Phật và vật cúng trong chùa, đều mắc tội nặng, còn trộm quyển kinh người khác, tính giá tiền giấy mực mà phạm tội nặng và nhẹ như luật đã nói." (Sa Di Luật Giải, trang 55)
4-3. Kinh Lương Hoàng: "Thà ăn thịt mình, quyết không lạm dụng Tam Bảo chuốc lấy khổ to, chịu tội một đời hoặc nhiều đời, bởi vì lạm dụng của Tam Bảo vậy. Lại nữa, của Phật của Pháp, của Tăng phần nào đều thuộc về phần ấy, không được lấy dùng lộn xộn. Nếu dùng trái phép sẽ tính giá, phạt tội; còn vật của chúng Tăng hoặc của Thường Trụ cũng thế, cũng có phần sở thuộc, không được phép dùng lộn xộn. Các điều như vậy trong Đại Luật có nói rỏ, văn nhiều đây chẳng chép. Đời Đường, đất Phân Châu, ông chủ chùa Khải Phước, tên là Huệ Trừng nhiểm bịnh, cất tiếng như trâu rống mà chết, chôn cất xong, ông tăng trong chùa đó là Ngài Trường Ninh ban đêm thấy ông Huệ Trừng về hình sắc ốm gầy. Trừng nói : " Tôi vì lạm dụng của Tam Bảo, chịu khổ khó nói, các tội còn nhẹ , duy có tội lạm dụng của Thường Trụ Tam Bảo rất nặng, xin Ngài làm ơn cứu giúp. Ngài Trường Ninh bấy giờ vì ông Huệ Trừng tụng kinh sám tội hơn một tháng Trừng trở về nói: " Nhờ lợi ích sám hối tụng Kinh, nay Tôi riêng ở một chổ và đã đặng bớt khổ, song chưa biết ngày nào mới hẳn là ngày hết tội." (Sa Di Luật Giải, trang 55)
4-4. Kinh Thập Giới: "Có phạm giới đây (trộm đạo), chẳng phải là thầy Sa di vậy" Kinh chép một thầy Sa di trộm của Thường Trụ 7 trái cây; một thầy Sa di thứ hai trộm của chúng Tăng vài cái bánh, thầy Sa di thứ ba trộm chút đường phèn của chúng Tăng, cả ba chết rồi đoạ Địa Ngục. (Sa Di Luật Giải, trang 59)
4-5. Cổ Kinh vân: "Ninh tựu đoạn thủ, bất thủ phi tài" dịch"Thà chịu chặt tay, chớ lấy của phi tài" (Sa Di Luật Giải, trang 63)
4-6. Bậc Cổ Đức: "Nhơn phi thiện bất giao, vật phi nghĩa bất thủ" dịch"Người không tốt không là bạn, của phi nghĩa không lấy "(Sa Di Luật Giải, trang 63)
4-7. Kinh Lục Độ Tập: Đức Phật nói trong một kiếp làm người nghèo:"Ta thà giữ đạo nghèo hèn mà chết, chớ chẳng làm người vô đạo, giàu sang mà sống" ( Sa Di Luật Giải, trang 63)
4-8. Kinh Tăng Nhứt A Hàm: Phật dạy các Tỳ Kheo:
" Nếu ai trộm cắp vật của người ta, bị người chủ bắt được, giao cho Quan trị tội, cầm giam trong lao ngục, hoặc chặt tay chơn, lắt tai, mũi nhẫn đến chặt đầu, tên bắn, đũ cách hành hạ rồi chết, sau khi mạng chung, sanh trong Địa Ngục lữa dữ thiêu thân , nước đồng sôi rót vào miệng , hoặc trong chảo dầu , quăng vào lò lữa, gươm đao đâm lụi, hấp nóng, bỏ chổ dơ, cối xay nghiền nát, cối giã đâm nhừ, chua chát nhức đau đủ cách, nào hay kễ xiết, cả trăm ngàn năm không ngày nào ra khỏi.
Tội Địa Ngục vừa mãn, kế sanh trong loại súc sanh làm voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, lừa, chó... , trải trăm ngàn năm, ra sức đền bù nợ người. Tội Súc Sinh vừa mãn lại sanh trong loài ngạ quỉ đói khát khỗ ngặt không thể nói đũ, trải trăm ngàn năm chịu khổ như thế. Hết đời Ngạ Quỉ mới được làm người lại, lại mắc hai món quả báo:
1. Nghèo cùng, áo chẳng kín thân, cơm không no miệng
2. Thường bị nạn nước trôi lữa cháy, hoặc bị vua bắt, quan đòi, giặc dữ cướp đoạt ... (Sa Di Luật Giải, trang 64)
4-9. Kinh Chánh Pháp Niệm: "Thà ăn trùng rắn độc và uống nước đồng sôi chớ không phá giới cấm mà ăn đồ ăn của chúng Tăng." (Sa Di Luật Giải, trang 73)
4-10.Luận Đại Trí Độ: "Những người phá giới, bằng mặc đồ pháp phục tức là tấm sắt đồng buộc vấn nơi thân; bằng bưng bình bát tức là bưng chén nước đồng sôi. Bằng có uống ăn tức là nuốt hoàn sắt nóng, uống nước đồng sôi. Bằng thọ dụng người ta cúng dường tức là quỉ ngục tốt, quỉ ngưu đầu trong địa ngục. Bằng vào nhà Tịnh Xá, tức là vào địa ngục lớn, bằng ngồi giường chúng Tăng tức là ngồi trên giường sắt nóng. Như trong các Kinh, Luận, Phật đã nói:"Khá chẳng răn sợ sao ? !"( Sa Di Luật Giải, trang 73)
4-11. Trong Kinh Phương Đẳng: Ngài Hoa Tụ Bồ Tát nói:
"Tội Ngũ Nghịch và tội tứ trọng ta có thể cứu đặng; còn tội trộm lấy vật của chúng Tăng, thì ta không thể cứu đặng." (Sa Di Luật Giải, trang 55)
5. Điểm che lấp thứ 5: - Những người trong Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phá giới thì bị kết quả gì?
Đối với Tăng sư phạm tội Dâm, bị luật pháp quốc gia kết tội và xử phạt thì đã đương nhiên bị loại ra khỏi Tăng Đoàn và phải trả Tăng Bào lại cho Giáo Hội; cớ sao cho đến ngày hôm nay tu sĩ phạm giới trọng Dâm đó vẫn ngang nghiên mặc áo Tỳ Khưu, ngang nhiên giảng đạo, ngang nhiên trụ trì chùa chiền, không tôn trọng giới luật do Phật chế ra??? Còn những kẽ phạm tội Vọng, Trộm Cắp vật Thường Trụ thì ngang nhiên tự xem như không có gì xảy ra, không tỏ ra chút gì hối hận hay thay đổi. Như vậy còn thể thống gì về đạo đức tác phong của kẽ xuất thế làm ruộng phước cho chúng sanh? Người sau nầy lấy điều gì để tôn trọng tu sĩ, lấy điều gì để phát tâm cúng dường? Lấy giới luật gì để tu tâm dưỡng tánh? Như vậy xuất gia làm tu sĩ để làm gì?
Chiếu Kinh Đại Niết Bàn, và cũng do Đại Luật thì cả đám người tu ở chung, tu chung, sinh hoạt chung với tu sĩ phạm giới nầy đều gọi là Phá Giới Tạp Tăng và Phá Giới Ngu Si Tăng. Vậy ông trả lời điều nầy như thế nào? Hảy xem lời nói :
5-1. Pháp Sư Ấn Thuận:
" Trong quy chế Tăng Đoàn do Phật quy định, nếu có người phạm trọng giới (Dâm, Vọng, Sát , Đạo) thì bị trục xuất khỏi Tăng Đoàn, thủ tiêu tư cách xuất gia của người ấy. Không những không xứng đáng là Tì-khưu, ngay cả Sa Di cũng không đáng. Phạm các trọng giới tất sẽ bị đọa lạc..." (Con Đường Thành Phật, trang 221)
5-2 Thế nào là giới trọng?
"Nếu thấy đức Như Lai nhơn sự chế giới, từ ngày nay ông phải cẩn thận chớ lại phạm, như bốn trọng giới (Dâm, Sát, Đạo, Vọng) người xuất gia không nên làm mà cố ý làm, không phải là Sa môn, không phải hàng Thích Tử, đây gọi là trọng " (Phẫm Kim Cang Thân, trang 127)
5-3 Kinh Sa Di Luật Giải nói:
Có phạm giới nầy đây ( Dâm), không phải thầy Sa Di vậy. -trang 67
5-4 Trong Kinh thủ Lăng Nghiêm chép sự tích bà vãi Tỳ Kheo tên "Bửu Liên Hương" riêng làm việc dâm dục, tự nói rằng "Dâm dục không phải như sát sanh, như ăn trộm, không có tội báo, bèn cảm trong thân lửa dục tuôn ra dử tợn, thân hình đang sống, đã sa vào địa ngục."... Bà vãi nầy nói như vậy rồi, trước cảm lửa từ trong nữ căn rồi dần dần đốt cả thân thể sa vào trong ngục "vô gián" - (Sa Di Luật Giải, trang 67)
5-5 Tri ngũ dục quá hoạn,
Cố xả chí xuất gia,
Vứu khí di thoả,
Khởi phục cánh phục.
dịch là
Biết ngũ dục hại lắm,
Nên bỏ đời đi tu,
Cũng như bỏ đàm mũi,
Lẽ nào đi ăn lại ! ? ( Sa Di Luật Giải, trang 69)
Cho nên trong Đại Luật nói : "Luận người vào Đạo là người biết xấu hổ, bưng bình bát đi khất thực hoá độ chúng sanh, thế nào buông lung trần dục, chìm đắm trong năm tình, đã bỏ vui ngũ dục, bỏ đó không đoái hoài, làm sao lại muốn nữa, như đứa ngu tự ăn đàm mũi. ( Sa Di Luật Giải, trang 71)
5-6. Kinh Thập Giới:
"Tuy dâm lung mà sống, song chẳng bằng trong sạch mà chết" Xưa có xứ An Đà có một ông Sa di tuổi trẽ đến nhà tịnh tín lãnh đồ ăn. Bấy giờ tịnh tín kia cả nhà đi phó hội, chỉ để một cô gái tuổi vừa 16, dung mạo đoan chánh, nhưng bị lữa dâm nung đốt, năm vóc mọp sát đất, quì bạch thầy Sa di rằng: Nhà em châu báu vô lượng, được huynh bằng lòng làm chủ nhà nầy, em sẽ cung cấp và hầu hạ. Thầy Sa Di tâm nghĩ:" Ta thà bỏ mạng , chớ chẳng phá giới cấm". Liền vào phòng đóng cửa quì gối, chấp tay phát nguyện và cắn ngón tay dùng máu viết trên vách bài kệ:
Đệ tử không bỏ chánh giới Tam bảo
Nguyện sanh về ngôi nhà vắng lặng,
Hết nghiệp mê lầm, thành đạo quả
Nguyện rồi thắt cổ mà chết. Vị vua trong nước hay đặng, khen chưa từng có, liền ngự đến làm lễ, đem thây thầy Sa di để trên xe báu, vua dùng đủ món cúng dường , rồi chất những cũi thơm mà đốt long trọng. ( Sa Di Luật Giải, Trang 73)
5-7 Luận Địa Trì nói:
"Tội Vọng Ngữ làm cho chúng sanh đoạ 3 đường ác, bằng sanh trong loài người mắc hai món quả báo:
1. Hay bị người chê bai
2. Bị người lường gạt"
- Thế nào là nói vọng đọa ba đường ác? Bởi ta nói vọng không thiệt, khiến người luống sanh tâm sầu thảm , nên chết chịu khổ trong Địa Ngục.
- Thế nào nói vọng đọa trong loài súc sinh? Bởi ta nói vọng trái tâm thành tín với người, nên mắc đọa trong loài súc sinh.
- Thế nào là nói vọng đọa vào loài Ngạ Quỉ ? Bởi ta nói vọng làm cho ai cũng mắc tội tham lam bỏn sẽn, nên ta mắc đọa vào loài Ngạ Quỉ.
- Vì sao bị người chê bai ? Bởi vì ta nói vọng không chắc thiệt, nên mắc báo bị người chê bai.
- Vì sao bị người lừa gạt ? Bởi vì ta nói vọng, dối phỉnh người, nên mắc quả báo bị người lừa gạt.
Ôi! Đả biết lời nói vọng mắc bốn quả báo lớn như trên. Khá chẳng răn chừa ư? ! (Sa Di Luật Giải, trang 89)
5-8 Giới Kinh nói:
"Tiền bạc đồ quý cho đến cây kim cọng cỏ của người không cho thì không được lấy. Của Thường Trụ , của công cộng, của quan dân, tất cả những vật không cho thì không được lấy. Nếu lấy là tội Trộm Cắp. Lén lấy , dối gạt , cho đến trốn thuế, dối đò đều thuộc tội Trộm Cắp..." ( Ông ANan hỏi Phật Thiện Ác Nhân Quả, trang 279)
5-9 Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Tà Chánh - Tội Du Lan Giá
Trong Đại Thừa đây, nếu có tỳ kheo phạm tội du -lan-giá thì không nên thân cận. Những gì là tội du-lan-giá trong kinh Đại Thừa ? Nếu có đàn tín tạo lập chùa Phật, đem các tràng hoa dùng cúng dường Phật. Có Tỳ kheo thấy sợi chỉ trong xâu hoa, không hỏi xin mà lấy thời phạm tội du-lan-giá. Hoặc biết hay chẳng biết đều phạm như vậy. Nếu vì tâm tham mà phá hoại tháp Phật thời phạm tội du -lan-giá. Không nên thân cận những người như vậy.
Nếu đàn tín thấy tháp Phật hư, vì muốn tu bổ cúng dường xá lợi, nơi trong tháp nầy hoặc được châu báu bèn đem gởi tỳ kheo . Tỳ kheo lảnh rồi bèn tự ý thọ dụng. Tỳ kheo nầy gọi là hạng bất tịnh, sanh nhiều sự đấu tranh. Các ưu bà tắc tốt không nên gần gủi cúng dường. Tỳ kheo như vậy gọi là Vô Căn, gọi là Hai Căn, gọi là Bất Định Căn. Người Bất Định Căn lúc tham muốn làm gái , thân liền biến làm gái; lúc tham muốn làm trai thân liền biến làm trai. Tỳ kheo như vậy gọi là ác căn, không gọi là nam, không gọi là nữ, không gọi là tại gia , không gọi là xuất gia. Với Tỳ kheo nầy, không nên thân cận cung kính cúng dường " (trang 253)
5-10 Ai Là người trong Địa Ngục?
Trong Kinh, Đức Phật hỏi ông A Nan rằng:
- Ông muốn thấy người trong Địa Ngục không?
Ông A Nan bạch:
- Dạ, con muốn thấy nhưng làm sao thấy đặng?
Đức Phật dạy:
- Người trong Địa Ngục, là người thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ việc ác, ấy là người trong Địa Nguc vậy.
Luận rằng: Người đời thiện hay ác chẳng ngoài ba nghiệp thân, khẫu , và ý. Nay nói ba nghiệp ấy toàn là hắc nghiệp thế mới vào Địa Ngục vậy.
Ngày xưa ông Vương Nhất Hựu ở đất Trấn Giang,nghe người bán tôm. Rao tôm một tiếng mà biết ba nghiệp kia đều ác. Vì sao? thân gánh tôm, thời là thân nghiệp ác; ý muốn bán tôm , thời là ý nghiệp ác; miệng rao bán tôm, thời là khẩu nghiệp ác. Thế biết rao tôm một tiếng, mà biết ba nghiệp đều ác. Sở dĩ Phật nói người đó là người ở trong địa ngục vậy. (Long Thư Tịnh Độ, quyển bốn , Tu Trì Pháp Môn, phần năm)
Ông C L phạm tội Ba La Di , lại thêm xâm phạm thân thể trẽ vị thành niên, nên đã có luật pháp thế gian trừng phạt và bắt buộc bồi thường cho gia đình nạn nhân số tiền lên tới bạc triệu US. Đã không tự sám hối và trả áo cà sa lại cho Giáo Hội, mà lòng ham muốn càng tăng thượng không ngừng, muốn được tăng chức đến sư ông cố vấn tối cao của Văn Phòng II Viện Hoá Đạo hải ngoại, gần ngang ngữa quyền hành với Đức Tăng Thống bên kia đang ngồi trong 4 bức tường giam lõng. Thật là ngông cuồng tự đại, khi thường luật Phật quá sức !
Thầy V Đ làm đến chức Viện Trưởng Viện Hoá Đạo tối cao trong nước chỉ thấp hơn chức Tăng Thống còn ức điều gì lại phá bỏ giới luật của người xuất gia, biện hộ che chở cho Tăng phạm giới Ba La Di đã từng bị luật pháp quốc gia ban hành bản án trừng trị và đã bị loại ra khỏi Giáo Hội. Chẳng những vậy mà sư V Đ trước mặt Đức Tăng Thống, miệng thì nói "Khâm Tuân", nhưng phía sau thì lén lút bàn bạc với đám gian tăng tạo ra một văn bản nhằm mục đích đưa ông C L trở về làm chức Cố Vấn tối cao cho Văn Phòng II Viện Hoá Đạo. Sư V Đ tự mình ký tên trong văn bản nầy trước , rồi lợi dụng sự tin cẩn của Đức Tăng Thống trong lúc ở gần Ngài, mới "nhờ" Ngài ký tên vào văn bản nầy. Điều nầy trái hoàn toàn với ước muốn và lý do mà Đức Tăng Thống từ nhiệm trước đó. Vậy sư V Đ vì bao che cho sư phạm tội Ba La Di, nên phạm tội Tăng Tàn; vì lừa gạt Ngài Quảng Độ, cố tình lấy cho được chử ký của Ngài Quảng Độ vào văn bản ngụy tạo nên phạm vào tội Vọng Ngữ vì đây là Tâm , Khẫu , và Ý đều cùng hành động lừa gạt. Sao gọi là lừa gạt vì đã biết và đã khâm tuân mà cố ý làm trái lại.
Còn sư V L thì phạm tội Vọng, cố ý phá hoại lại Tăng Đoàn quá nhiều qua nhiều phương tiện như tự ý mở Đài Truyền Hình, mở ra website khác với tiếng nói của Giáo Hội, mời sư quốc doanh lên Đài Truyền hình giảng "đạo", mời sư quốc doanh gia nhập vào ban điều hành giáo hội làm cho các thành viên giáo hội phản đối... mà mọi người đều biết tưởng không cần phải nói ra chi tiết. Sư nầy còn làm đơn từ chức, rồi bỏ ra khỏi Giáo Hội. Sư không mang trả tài sản cũng như bất động sản do đàn na tín chủ hiến cúng cho Giáo Hội, chẳng những vậy mà còn cho người đánh phá không ngừng vào Giáo Hội của Ngài Quảng Độ qua các hình thức khác nhau.
Việc làm của ba người trên, dĩ nhiên là còn có những người khác nữa, nói lên một đường lối nghịch lại trọn vẹn đường hướng lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và thấy rỏ ràng họ đang cấu kết trong, ngoài để biến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành ra một giáo hội thối nát. Ngay nơi trường hợp sư V Đ, nếu Ngài Quảng Độ sơ ý ký tên vào văn bản kia thì trong một nháy mắt, tin tức ông C L được phục chức cố vấn tối cao cho Viện Hoá Đạo Văn Phòng Hai Hải Ngoại truyền đi khắp mọi nơi, thì có phải chăng Ngài Quảng Độ ân hận biết mấy cho vừa! phải chịu biết bao nhiêu sự chê cười phỉ nhổ một cách oan ức tủi nhục, đau khỗ tận cùng, không thể nào biện bạch được cho đến hết cuộc đời còn lại hay không? Rỏ ràng âm thầm nội gián, phản bội sư môn rồi. Như vậy thì không gọi những sư tăng đó đang tìm cách truất phế Đức Tăng Thống thì nói họ đang làm gì???? Vậy mà còn có người bắt lỗi Ngài Quảng Độ sao gọi sư V Đ là "nó" trong lúc có cuộc phỏng vấn với Cô Ỷ Lan. Đây để nói rỏ là lỗi hay không lỗi qua hai phương diện của vấn đề nầy:
1. Về phương diện hành chánh: Đây là tiếng xưng hô chỉ người thứ ba, trong ngôn ngử thế gian, không có gì là bị ngăn cấm từ ngôn từ nói chuyện cho đến văn tự. Ở đây tiếng "nó" để chỉ cho kẽ mà Ngài Quảng Độ thương mến, tin tưởng lâu nay, bổng nay thình lình bội phản, lừa gạt, mưu tính truất phế Ngài, và bán cả Tăng Đoàn vào tay quỷ dử. Xét ra tiếng " nó" nầy còn quá Từ Bi. Nếu là người khác, thì tiếng "nó" sẽ được thay thế bằng tiếng nặng nề hơn nhiều.
2. Về phương diện Đạo Pháp: Đối với loại tăng khinh thường giới luật do Phật chế ra, phá hoại tăng đoàn giáo hội như sư V Đ đã làm, thì nói bằng "nó" thì đâu có thấm vào đâu, mà cần chỉ mặt mắng chưởi nặng nề rồi đuổi ra khỏi Tăng Đoàn, còn chưa hết tội. Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, Đề Bà Đạt Đa có lần sanh tâm muốn lấy hết Giáo Hội của Phật, nên nói với Phật rằng:
" Phật đã già yếu thường ưa nhàn tịnh, Ngài có thể vào rừng tự vui. Tăng chúng có thể giao lại cho Tôi"
Phật nói:
"Xá Lợi Phất Mục Kiền Liên ...có trí tuệ lớn, là người hiền thiện, nhu hoà, thanh tịnh. Ta còn không cho nhiếp Tăng, huống chi ngươi là người Cuồng, Người Chết, người Súc Nhổ."
Thế mới biết hành động biện minh cho lời nói. Cần gì phải tự xưng mình là ăn cướp, chỉ cần giựt đồ của người ta một cách bất chánh thì đã là đứa ăn cướp rồi. Nghe tiếng sủa mà biết là chó, các phản sư nầy đâu cần phải nói cho mọi người biết mình đang truất phế Đức Tăng Thống, mà chỉ cần có những hành động mà mọi người chứng kiến trong những ngày vừa qua như lừa gạt chử ký, chống phá Ngài Quảng Độ, cho người chưởi mắng, vu khống, bôi bác Giáo Hội..thì đó là những chứng minh hùng hồn cho ý đồ truất phế vị Tăng Thống từ trước rồi. Xét về tội thì sư V Đ là người có tội lớn hơn hết vì đã lợi dụng lòng tin cẩn của Đức Tăng Thống mà viết sẳn văn bản hồi và tăng chức cho ông C L, rồi bất kỳ xuất ý đưa ra để Đức Tăng Thống ký vào tức là ép Ngài vào chổ chết.
Nói về vai vế, thì Ngài Quảng Độ là bậc Hoà Thượng của sư V Đ. Vậy Hoà Thượng là gì?
Hoà Thượng còn gọi là Lực sanh: Nhờ sức dạy dỗ, sanh giới thân huệ mạng cho ta, còn gọi là Thân Giáo Sư. Sao gọi là Thân Giáo Sư ? Đệ tử gần gũi bên thầy, lãnh lời giáo huấn. Nay đây tuy không phải gần thọ giới và lãnh lời giáo huấn nhưng mà do Ngài lạp cao đức trọng cho nên đồng bực Thầy mình vậy. Mà đã đồng bực Thầy mình thì mình đủ phép cung kỉnh chớ không nên khinh nhờn. (Sa Di Luật Giải-trang 175)
Trong Luật Ngũ Thập Tụng có nói:
Làm đệ tử thường mến đức Thầy, chớ nên soi bói lỗi nhỏ. Thuận theo Thầy, được thành công . Tìm lỗi Thầy mình tổn phước. Kinh Thiện Cung Kỉnh, Phật nói: "Đệ tử ở chổ Thầy chẳng đặng nói lời thô. Có lỗi Thầy quở trách chớ nên nói trả lại. Thầy không mở lời hỏi, chẳng đặng vội nói . Phàm Thầy sai khiến chẳng nên trái mạng . Bằng ở chổ Thầy không có tâm cung kỉnh và nói tốt xấu của sư tăng. Người ngu thế đó, phải y pháp trị tội. Thiệt Thầy có lỗi còn không nên nói, huống chi không lỗi. Bằng ở bên Thầy không cung kỉnh, sẽ để dành riêng cho một cái Địa Ngục nhỏ tên Chuỳ -Phát (dùi lụi, roi đánh). Đoạ trong ngục nầy một thân hoá làm 4 đầu. Thân thể bừng cháy, trạng như đống lữa, bốc cháy dữ dội, đốt mãi không thôi.
Người tội ở trong ngục, lại có con độc trùng mỏ như cây sắt, thường cắn cuống lưỡi. Hết tội đời Địa Ngục, lại sanh trong đời súc sanh, thường ăn chất nhơ bẩn. Mãn kiếp súc sanh dẫu sanh trong loài người, thường sanh vào chổ biên địa, nước da chẳng giống người , hình sắc đen đúa , và không đủ nhân tướng. Thường bị người khi dể, chê bai lấn hiếp cách Phật Thế Tôn hằng không có trí huệ. Từ đây chết đi đoạ trở lại trong Địa Ngục chịu biết bao sự khỗ và hoạn nạn. (Sa Di Luật Giải, Trang 183)
Sư V Đ phạm tội nặng hơn Kinh đây kễ, hình phạt tương ưng sẽ không thoát cảnh Địa Ngục ở kiếp sau. Như vậy Hoà Thượng Quảng Độ dùng tiếng "nó" để ám chỉ "gả ác tăng" nầy thì đâu có gì sai trái?
Cổ nhân xưa có câu:
Công nghiệp hữu vi, sanh nhiều tội lỗi
Thiên đường chưa tạo, địa ngục trước thành.
Khó liễu sanh tử, đều thành gốc khổ
Dưới lớp ca sa, thân người dễ mất.
Trong vòng thiết toả, phải chịu lữa gươm. (Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Bài thơ nầy ứng cho sư V Đ, việc làm trái gốc đạo, phạm đến điều răn dạy của Tổ Sư nên phước đức và mạng sống rồi đây củng giãm ngắn, mà cảnh tượng địa ngục cũng bắt đầu chiêu cảm. Hy vọng lời nầy được đến tai sư V Đ, để sư có dịp ngẫm suy giáo lý 12 Nhân Duyên Phật dạy, lưới trời tuy lồng lộng, nhưng nhân quả không đi sai một tơ hào. Chỉ mắng người tu hành trì giới một tiếng nặng, thời đã sa vào địa ngục, như trong Sa Di Luật Giãi Kinh còn ghi lại:
" Trong Đại Luật nói: Xưa ông Điều Đạt mắng Ngài Xá Lợi Phất là tỳ kheo ác dục, vừa mắng thì huyết nóng trong mũi liền chảy ra, thân đương sống bèn đoạ trong Địa ngục lớn. Phật nhơn đó nói bài kệ rằng :
Phù sĩ xử thế, phũ tại khẫu trung
Sở dĩ trảm thân, do kỳ ác ngôn
nghĩa là
Luận kẽ ở đời, búa ở trong miệng,
Sở dĩ chặt mình, do lời nói ác"
Chỉ lời nói ác cho tăng trì giới mà bị quả báo hiện tiền rồi rơi vào địa ngục, hà huống chi Sư làm việc đại nghịch như vọng ngôn, lừa Thầy Tổ, phá hoại và bán đứng Giáo Hội, tội lỗi biết bao lớn, thì có tài gì thoát khỏi địa võng thiên la của Thiên Tào Địa Phủ? Phán Quan trợn mắt; Ngục Chủ dậm chân; Thiện Ác hai đồng tử, ngày đêm túc trực, sổ bộ ghi liền. Đã có nợ tức thời phải trả; đã tạo nghiệp ắt chuốc hoạ vào thân. Nợ đến thì không thể chạy; nghiệp cãm thì không thể tránh. Sổ đời vừa đóng; câu móc sẳn sàng. Kinh sách còn ghi lại biết bao chuyện luân hồi nhơn quả, thế gian đang xảy ra vô số việc báo ứng tang thương, Sư là người có tu hành há chẳng chút sanh lòng kinh dị? Mong Sư nghỉ đến nhân thân nan đắc, Phật Pháp nan cầu, phước nhân thiên dễ gì tạo được. Một mai mất cả thân người, thì ngàn năm biết bao giờ tìm lại được. Mong Sư lắng lòng thức tỉnh, bỏ gian đảng ma vương trở về đường ngay nẽo chánh thì mới có hy vọng kiếp sau còn chút tương lai.
6 . Điểm che lấp thứ 6 : Cả nhóm Tu sĩ trong Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sống chung sinh hoạt chung và thuyết giới chung với những sư Phạm Giới, nên đều phạm giới, gọi là Phạm Giới Ngu Si Tăng và Phạm Giới Tạp Tăng.
Chiếu Kinh Đại Niết Bàn, và cũng do Đại Luật thì cả đám người tu ở chung, tu chung, sinh hoạt chung với tu sĩ phạm giới nầy đều gọi là Phá Giới Tạp Tăng và Phá Giới Ngu Si Tăng. Muốn biết họ phạm giới như thế nào, hảy xem các lời kinh sách sau đây:
6-1. Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Kim Cang Thân
" Đức Phật nói ! Nầy Ca Diếp Tăng chúng có 3 hạng: một là Phạm Giới Tạp Tăng, hai là Ngu Si Tăng, ba là Thanh Tịnh Tăng. Hạng Phá Giới Tạp Tăng thời dễ phá hoại. Hạng thanh tịnh trì giới thời lợi danh không làm hư hoại được.
Thế nào là loại Phá Giới Tạp Tăng? Nếu thầy Tỳ Kheo dầu là giữ gìn giới cấm, mà vì cầu lợi nên cùng với người phá giới ở chung, ngồi chung, sự nghiệp chung, ở đây gọi là phá giới Tạp Tăng.
Thế nào là Ngu Si Tăng ? Nếu có Tỳ Kheo ở nơi A Lan Nhả (thanh vắng yên ổn), tâm trí tối khờ đần độn, thiểu dục đi khất thực. Đến ngày thuyết giới ( nữa tháng một lần) ngày tự tứ (1 năm một lần) bảo các đệ tử thanh tịnh sám hối. Thấy người không phải đệ tử, phạm giới, không có thể bảo thanh tịnh sám hối, mà bèn chung thuyết giới tự tứ. Đây gọi là hạng Ngu Si Tăng." ( Kinh Đại Niết Bàn , Phẫm Kim Cang Thân)
6-2 Trong Kinh Đại Niết Bàn Phẫm Tà Chánh, Phật nói :
" Nếu có luật sư nào nói rằng : "Phàm chổ phạm giới đều không tội báo"
Không nên gần gủi luật sư nầy. Như Phật đã từng dạy:
Nếu nói quá một pháp (ngược lời Phật dạy)
Đây gọi là vọng ngữ
Chẳng nhận thấy đời sau
Không ác nào chẳng tạo
Do đây chẳng được thân cận người phủ nhận nhơn quả. Trong chánh pháp của Phật trong sạch như vậy, huống lại có phạm tội du lan giá (không hỏi xin sợi chỉ, mà tự lấy) hoặc phạm Tăng Tàn và Ba La Di mà chẳng phải là tội ư ! Thế nên rất phải tự giử gìn những giới pháp như vậy. Nếu không giữ gìn thời lấy pháp gì mà gọi là cấm giới ? Trong các Kinh, Như lai cũng nói nếu có phạm bốn trọng tội ba la di cho đến phạm tội nhỏ đột kiết la thời phải theo luật mà trị tội. Nếu chúng sanh chẳng hộ trì cấm giới, làm sao thấy được Phật Tánh. Dầu chúng sanh đều có Phật Tánh, nhưng phải do trì giới rồi sau mới được thấy. Do thấy Phật tánh mà được thành vô thượng chánh giác" (Đại Niết Bàn Phẫm Tà Chánh, trang 248)
6-3. Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Tà Chánh , Phật nói Không Thân cận và cúng dường tăng phạm Tội Du Lan Giá
Trong Đại Thừa đây, nếu có tỳ kheo phạm tội du -lan-giá thời không nên thân cận.
Những gì là tội du-lan-giá trong kinh Đại Thừa ?
Nếu có đàn tín tạo lập chùa Phật, đem các tràng hoa dùng cúng dường Phật. Có Tỳ kheo thấy chỉ trong xâu hoa, không hỏi xin mà lấy thời phạm tội du-lan-giá. Hoặc biết hay chẳng biết đều phạm như vậy. Nếu vì tâm tham mà phá hoại tháp Phật thời phạm tội du -lan-giá. Không nên thân cận những người như vậy.
Nếu đàn tín thấy tháp Phật hư, vì muốn tu bổ cúng dường xá lợi, nơi trong tháp nầy hoặc được châu báu bèn đem gởi tỳ kheo . Tỳ kheo lảnh rồi bèn tự ý thọ dụng. Tỳ kheo nầy gọi là hạng bất tịnh, sanh nhiều sự đấu tránh. Các ưu Bà tắc tốt không nên gần gủi cúng dường. Tỳ kheo như vậy gọi là Vô Căn, gọi là Hai Căn, gọi là Bất Định Căn
Người Bất Định Căn lúc tham muốn làm gái , thân liền biến làm gái; lúc tham muốn làm trai thân liền biến làm trai.
Tỳ kheo như vậy gọi là ác căn, không gọi là nam, không gọi là nữ, không gọi là tại gia , không gọi là xuất gia. Với Tỳ kheo nầy, không nên thân cận cung kính cúng dường " (Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Tà Chánh, trang 253)
7. Điểm che lấp thứ 7: Mọi Tu sĩ và Phật Tử không thân cận cúng dường, đồng thời quở trách và trừng trị các Tăng Phá Hoại Giới Luật Phật.
Các tu sĩ trong Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không tôn trọng luật tạng do Đức Phật chế ra do đó tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ, củ, mới mà các điều trừng trị sau đây nên được áp dụng vào, hiễn nhiên việc làm nầy một số là sự xử lý của các tăng nghiêm trì giới luật, một số là công việc của cư sĩ. Cư sĩ thọ trì đúng pháp Phật là không thân cận và cúng dường cho các tăng hoại pháp, như trong Kinh Đại Niết Bàn, Phật giảng.
7.1 Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Trường Thọ , Phật Nói với Ngài Đại Ca Diếp rằng :" Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, nơi nào có Tỳ kheo trì giới đầy đủ oai nghi , hộ trì chánh pháp, thấy người hoại pháp bèn có thể khu khiển quở trách trừng trị. Phải biết Tỳ Kheo đó đặng phước vô lượng không thể tính kễ (trang 101)
7.2 Kinh Đại Niết Bàn, Phẫm Trường Thọ, trang 103, Đức Phật nói với Ngài Ca Diếp Bồ Tát rằng: "Nếu người (Tỳ kheo và Tỳ Kheo Ni) nào không tu học ba phẫm Pháp nầy ( Giới, Định, Huệ) lười biếng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp, thời vua , quan, 4 bộ chúng phải nên nghiêm trị.
-Nầy Ca Diếp! như vậy các vua , quan, 4 bộ chúng có mắc tội chăng?
Ca Diếp Bồ Tát thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, Không!
Phật nói:
- Các vua, quan , và 4 bộ chúng ấy còn không có tội, huống là Như Lai."
Đó là lời Phật thuyết, trừng trị tăng phá giới, huỷ hoại Chánh Pháp là bổn phận của mọi người Phật tử
7-3 Đại Niết Bàn, Phẩm Tứ Y : Chẳng cúng dường Tăng phá giới
Phật nói :" Nầy Ca Diếp ! nếu Ưu Bà Tắc biết rõ là tỳ khưu phá giới thời chẳng nên cung cấp lễ bái cúng dường . Nếu biết tỳ kheo nhận và chứa 8 vật bất tịnh, cũng lại chẳng nên cung cấp lễ bái cúng dường. Nếu trong chư tăng có người phá giới chẳng nên vì đấp cà sa mà cung kính lễ bái.
Ngài Ca Diếp Bồ Tát thưa : Bạch Thế Tôn ! Lành thay ! Lành thay ! Lời Phật dạy chơn thật không hư, con sẽ trân trọng tuân theo, xem như bảo vật kim cang" (trang 231)
II. Chổ nguy hiểm thứ hai: Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một tổ chức hoà hợp hoà giải với cộng sản hay không hoà hợp hoà giải với cộng sản?
1. Nếu Tăng Đoàn PGVNTN là một tổ chức hoà hợp hoà giải với cộng sản, thì Tăng Đoàn nầy là khuôn đúc của Tăng Đoàn Quốc Doanh do Nhà nước cộng sản cài người vào và quản lý. Vậy những tăng trong Tăng Đoàn PGVNTN là các sư quốc doanh và chịu dưới sự lảnh đạo của sư Trí Quảng.
2. Nếu Tăng Đoàn PGVNTN là một tổ chức không hoà hợp hoà giải với cộng sản, thì Tăng Đoàn nầy là một tổ chức bất hợp lệ. Vì sao? vì được thành lập ra trong đất nước cộng sản thời gian sau tháng 4, 1975, mà không đăng ký có nghĩa là không hợp lệ với hiến pháp qui định. Do đó mà Tăng Đoàn nầy có thể bị giải tán bất cứ lúc nào. Hơn nữa các tăng sĩ nào mang tài sản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất theo tăng đoàn mới nầy, mà không phải của chính bản thân họ tạo ra thì sẽ bị chánh quyền địa phương hay giáo hội quốc doanh cưởng chiếm không sớm thì muộn.
3. Lẽ dĩ nhiên tài sản của giáo hội mà Tăng Đoàn mới đang giử đó sẽ bị bọn cộng sản vin vào cớ là vô chủ, và bị tước đoạt để "xung công" một cách dễ dàng hơn là chuyện "chiếm đất dân oan" đã xảy ra trong những năm vừa qua. Nhà đất của dân có chủ, có tên, có giấy tờ chứng minh còn không thể giữ được, huống hồ các tài sản của Tăng Đoàn mới nầy vốn của Giáo Hội mà các tu sĩ hay cư sĩ tự ý lấy đi nên bị xem là vô chủ, vô tên, không có giấy tờ bảo chứng, thì chuyện "xung công" quá dể dàng trong chế độ cộng sản hiện nay, vả lại người tu hành làm gì mà có tài sản? Đã xuất gia, mang áo nhà sư rồi, thì đâu được phép buôn bán trái phép, vả lại am tự , tiền chùa là loại tài sản xưa nay không bị đóng thuế, nay do làm ăn buôn bán mà có tức là trốn thuế và vi phạm luật pháp quốc gia. Nếu có tài sản riêng tư thì tài sản nầy phải là của Giáo Hội. Mà Tăng Đoàn mới nầy không có một vị tăng thống hay một Giáo Hội chính danh nào đở đầu, thì cộng sản chuyển hết tài sản của Tăng Đoàn mới nầy vào tay Giáo Hội quốc doanh hoặc để cho phường khóm trưng dụng.
4. Còn nếu bảo rằng đây là sự hiến cúng từ các Phật Tử trên thế giới gởi về , thì cũng bị cộng sản nói rằng các ngoại kiều kia cũng là "khúc ruột ngàn dậm" của đảng và nhà nước thì tài sản hiến cúng đó cũng thuộc vào quốc khố. Người tu hành làm gì có tài sản? Các tăng sư và các cư sĩ của Tăng Đoàn mới nầy có lý do gì chống lại ? Dù mấy sư tăng trong Tăng Đoàn mới nầy muốn ẩn tu cũng không được, trừ khi không có động sản hay bất động sản. Còn nếu như đã có động sản và bất động sản rồi thì chạy sao thoát khỏi phường khóm địa phương dòm ngó. Nay Tăng Đoàn mới nầy tách ra ngoài GHPGVNTN rồi, tài sản đang có đó phải trả lại Giáo Hội, đâu phải là của Tăng Đoàn nầy nữa. Dựa vào cớ như thế, bọn cộng sản có quyền và có lý do hợp lệ để đẩy các sư tăng chạy te ra khỏi chùa với bộ hạ y, nghĩa là các ông ra khỏi tu viện một cách "hợp lệ" với một cái quần đùi và một cái áo thung nếu chúng muốn. Các ông đừng vui mừng quá sớm với danh xưng Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, vì đây là một tổ chức không hợp lệ. Tất cả tài sản của mọi người trong nhóm Tăng Đoàn nầy sẽ trở thành tài sản quốc hửu hoá sau khi có sự tuyên bố thành lập Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Còn trường hợp các ông xin đăng ký để có một danh xưng "Tăng Đoàn" thì tài sản của các ông cũng thuộc vào Giáo Hội nhà nước vĩnh viễn tức thời. Đằng nào các ông cũng mất hết tài sản. Muốn tránh được điều nầy, các ông phải liên lạc xin gia nhập trở lại Giáo Hội của Ngài Quảng Độ. Được vậy khi chánh quyền địa phương hay Giáo hội nhà nước muốn chiếm giử tài sản của các ông thì các ông phải nói với họ các ông là người của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất , và nhờ Ngài Quảng Độ xác nhận lại điều đó. Muốn thế thì các ông phải cầu trời khẩn Phật thật nhiều để cầu nguyện cho Ngài Quảng Độ được mạnh khoẽ , sống càng lâu thì các ông càng được che chở. Khi các ông đọc những lời nầy thì mọi người cũng đọc như vậy. Chỉ có các ông là người chịu lỗ lã nhất mà thôi nếu không kịp thời quay lại với Giáo Hội Ngài Quảng Độ. Bọn cộng sản đang thèm muốn rình rập tài sản của ông ngày đêm, bất cứ một viên phường khóm hay một cán bộ công an nghèo khổ nào cũng có thể làm khó ông được. Nay chỉ phân tách lợi hại như vậy, còn muốn nghe hay không thì tuỳ các ông. Các ông có thể thắng một trận nhưng các ông thua trọn vẹn chiến tranh, ý nghĩa là như vậy. Chiến đấu mà như vậy thì chiến đấu đễ mà làm gì?
Kết luận, lập một Tăng Đoàn mà không có giới luật che thân, không có vị Tăng Thống Trưởng Lão có đức độ thì kết quả sẽ mất hết tất cả. Phật đã dạy giới như đất là nơi nẩy nở tăng trưởng tất cả những thiện pháp. Hoà Thượng là người che chở sanh ra huệ mạng cho ta. Cho nên phải kính thầy, trọng giới mới là người có phước đức, mới được nhân thiên ưa mến kính trọng. Kinh nói:
" Giới như hải vô nhai, như bảo cầu vô yểm" nghĩa là " Giới như biển mênh mông không bờ mé; như ngọc báu trân châu cầu mãi không nhàm"
và có câu :
"Giới như đèn sáng lớn, hay tiêu tối đêm dài ; giới như chuổi anh lạc , trau dồi pháp thân. Giới như mặt đất bằng, sanh ra các công đức; giới như chiếc thuyền to , đưa người qua biển khổ. Người sáng hay giử giới, hay đặng ba điều vui: tiếng tốt, lợi lộc, sau nầy về cõi lành. Xem hữu ích như thế, có trí nên hộ trì " (Sa Di Luật Giải, trang 8)
Vậy giới luật như linh hồn của thân thể tăng đoàn, nay không có giới luật thì cái thân xác tăng đoàn đó là cái thân xác chết, không có sinh động, và không giúp ích được gì cho ai. Lý do mà các ông thành lập Tăng Đoàn mới nầy không phải vì cứu giúp chúng sanh hay có tâm niệm thiện lành gì cả, mà chính là việc đánh phá lại Giáo Hội của Ngài Quảng Độ, đó cũng là đánh phá lại Phật Pháp. Cả bọn giống như một đám người mù loà đang cột xích lại với nhau đi ngang triền núi trong cơn mưa bảo, một gả mù trợt chân rơi xuống núi thì cả bọn cùng rơi theo. Đó tất cả những hoạ hoạn sẻ xảy ra vì cả nhóm không có một giới đức nào che thân. Do đó không có các thiện tri thức và các chư long thiên ủng hộ, mà chỉ có các ác ma xen vào xúi dục, làm cho kẽ tu hành thiếu trí huệ bị chúng lôi kéo trở thành quyến thuộc ma vương mà chịu nhiều thãm khổ sau nầy. Tuy nhiên, người tu không như kẽ thế gian mà phóng lao phải theo lao. Các người đó có thể dùng sự sáng suốt của mình mà từ bỏ nhóm nầy để trở về với chánh pháp. Điều đó sẽ mang đến sự hạnh phúc về sau. Hy vọng các ông đừng quá trể. Nếu thấy được điều đó mà không ngần ngại từ giả cái sai lầm vướng mắc nầy thì có khác gì là đại giác, chuyển vô minh thành trí tuệ, chuyển phiền não thành Bồ Đề; công phu tu tập ngàn năm không bằng giây phút chuyển ý, bỏ hết tà tâm quy về chánh đạo, thì có thể uống được chung trà của ngài Triệu Châu. Khi gặp ông, Ngài sẽ nói :
" Công đi xa ngàn dậm,
mời anh một chén trà"
ông mới hỏi :
"trà đâu?"
Ngài mới nói: " mời anh uống trà, uống đi"
Trong thế giới vạn hữu nầy, con người mạng sống quá mõng manh mà luôn ôm đồm quá nhiều chuyện, chính vì ôm đồm quá nhiều chuyện nên không thể giải phóng được tâm hồn dù là trong một giây phút ngắn ngủi. Sách vở để lại quá nhiều luân lý và đạo đức, nhưng sự giải thoát chỉ gom lại 4 chử đơn giản mà người đời quên lảng. Bốn chử đó là " bỏ ác theo thiện". Những pháp tu huyền diệu trong Phật giáo cũng phải bắt đầu từ đây mà làm, chớ không phải nơi đàm huyền ,thuyết diệu, thế trí biện thông nơi chót lưỡi đầu môi. Sống với cái chân thật tự lòng mình, xả bỏ tất cả những việc ác, hoan hỉ làm tất cả những việc thiện thì chẳng những thưởng thức được sự ngọt ngào của hương vị trà Triệu Châu mà còn có thể hưỡng được mọi thứ cam lồ diệu dược trong cùng khắp thế giới chư Phật. Cụ Nguyễn Du xưa có nói: " Thiện Tâm ở tại lòng ta, chử Tâm kia mới bằng ba chử tài" Ngày xưa vị sơ tổ của phái Trúc Lâm là vua Trần Thái Tôn một hôm một mình vượt núi trèo non cầu Ngài Thiền Sư Viên Chứng làm thầy. Quần thần chạy đi tìm khắp thì thấy vua đang cùng ở với vị thiền sư Viên Chứng. Quần thần bấy giờ mới khẩn khoản cung thỉnh vua về cung, nhưng vua không chịu đi. Ngài Viên Chiếu mới khuyên:
Sơn vốn vô Phật làm xong
Bụt ở trong lòng, Phật tại hồ tâm
Hiện ra nhản, nhỉ, thanh, âm
Dương mi, thuấn mục chẳng tâm thì gì?
Tâm nguyên không tịch vô vi
Ngộ được tức thì quả chứng Như Lai
Tính Ta há phải cầu ai
Gia trung Phật bảo muôn đời sáng soi.
Nghe xong vua Trần Thái Tôn ngộ được trong tâm mình có Phật mà trở về cung lo việc triều chánh, tiếp tục tu tâm , sau trở thành sơ tổ phái Trúc Lâm. Cho mãi đến đời nhà Lê sau nầy, có thiền sư Chân Nguyên dòng Lâm Tế mới tường thuật lại câu chuyện nầy qua quyển Thiền Tông Bản Hạnh. Trong quyển Thiền Tông Bản Hạnh nầy, thiền sư Chân Nguyên cũng ngầm cho biết chổ sở đắc chơn tâm qua những vần thơ sau đây:
....Chư Phật trỏ bảo căn nguyên
Khẩu thụ tâm truyền Bát Nhã chính tông
Tứ mục tương cố nhãn đồng
Thầy tớ trao lòng đăng chúc giao huy
Bổng đầu cử nhản ấn tri
Cơ quan thấu được thật thì tri âm
Đến khi phó pháp truyền tâm,
Vận dụng trí huệ thiển thâm nhiều bề
Hoặc là nghiễm toạ vô vi,
Hoặc là thuấn mục, dương mi, dao thần.
Hoặc hiện sư tử tần thân,
Quát thét một tiếng xa gần vang uy.
Ai khôn xem đấy xá nghì
Hội ngộ tự tính tức thì chứng nên,
Thửa xưa hội cả Kỳ Viên
Phật cầm một đoá hoa sen giơ bày
Ca Diếp trí tuệ cao tay
Liễu ngộ tự tánh bằng nay mỉm cười.
Trần trần sát sát Như Lai
Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen
Hoa là vốn tánh trạm viên
Bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng
Hậu học đã biết hay chăng?
Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời
Thiêng liêng ứng khắp mọi nơi
Lục căn vận dụng trong ngoài thần thông
Chân hoa sắc tức thị không
Không tức thị sắc thể đồng như như
Tam thế chư Phật Tổ Sư
Tứ mục tương cố thị cừ thiền cơ.
.....
Thánh phàm vô khiếm vô dư
Bất sinh bất diệt như như Di Đà
Liễu tri vạn pháp không hoa
Văn tự ngôn ngữ ấy là vọng duyên
Chân như tính vốn thiên nhiên
Vô tạo vô tác căn nguyên của nhà
Xem kinh Phật nói còn xa
Nghiệm cơ Tổ bảo, sát na biết rồi
Ngộ Tánh không tịch, thì thôi
Chẳng lạ chi lời vấn đáp tiêu hao.... (Thiền sư Chân Nguyên)
Thế mới biết, cầu tâm chẳng cầu Phật, theo tánh chẳng theo tướng, tức bỏ vọng tưởng si mê trở về với chơn tâm thanh tịnh sáng suốt, là thưởng thức được chung trà của Ngài Triệu Châu vậy. Bỏ tà tìm chánh, bỏ mê tìm giác tức là lúc để cái tâm xuôi dòng chơn lý, ngược lại sáu sự lôi kéo của chức tước, lợi lộc, ăn uống, khen chê, sắc đẹp, và mùi vị, tức là bước vào con đường chứng Thánh rồi. Cần gì phải có tiếng tăm "ông nọ bà kia " mà bám theo Tăng Đoàn kia hay tổ chức nọ, đó là ma chướng. Mời anh dùng trà đi !
Xét cho cùng ra, thì tổ chức Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là những gả cùn tử bỏ nhà ra đi, nói một cách khác là những đứa con ngỗ nghịch, bỏ nhà ra đi, bất kể những lời dạy bảo của cha mẹ mình. Khi bỏ nhà ra đi rồi mới thấy chung quanh toàn là những hỗ, lang đang rình rập chực hờ vồ xé ăn nuốt. Bấy giờ cả đám cùn tử nầy lại càng oán hận lại cha mẹ mình, một mặt chưởi mắng nguyền rủa cha mẹ một cách thậm tệ như trong bài viết " Mục Đích Sinh Hoạt Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất" vừa biên trong ngày 20 tháng hai vừa qua, một mặt khác phải đối đầu với bao nhiêu cảnh tượng hải hùng trong ngày tháng lưu lạc ! Đâu có biết rằng mỗi hành động ác từ thân, khẩu, ý đối với cha mẹ sẽ tạo nên những trọng nghiệp không thể tưởng tượng được như trong kinh Tôn Thắng Đại Phật Đảnh Đà Ra Ni có ghi câu chuyện một đứa trẻ chăn trâu mắng bà mẹ mình 7 tiếng quạ, chồn, heo, lừa.... thế thì sau khi mệnh chung, những kiếp sau, sau khi trả hết tội trong địa ngục hàng vạn năm, rồi trở thành loài quỷ đói tuổi thọ vô lượng kiếp, sau mãn hết kiếp ngạ quỷ , thì cứ một lời nói ác với mẹ mình thì tự thành quạ, chồn , heo , lừa.... khi mãn quả nghiệp mới được làm người nhưng xấu xí , ngu dốt , và tật nguyền mà không biết bao giờ mới thoát. Huệ mạng của tất cả quí vị đều sanh trưởng trong lòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Vậy kễ từ nay các tăng sư trong Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đừng vu khống hay nói xấu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nữa vì đó là người mẹ của quí vị. Nếu không, thì gốc tội càng lúc càng sâu.
Hảy nghe bài kệ:
Lá rụng về cội,
Thiên địa tuần hoàn,
Nhơn quả báo ứng,
Kinh Phật xưa nay,
Chưa hề sai một,
Việc quấy càng gieo
Tội lỗi càng nặng,
Tạo tác nhân ác
Nghiệp phải tự mang,
Thân nầy chưa trả,
Thì đợi thân sau,
Ngàn kiếp đeo đuổi,
Khó thoát luân hồi,
Khi ở trong thai,
Nghiệp thành quả chín,
Lúc sinh ra đời,
Thãm khổ liên miên,
Trách trời bất công,
Càng thêm ngu tối,
Triệu kiếp tà kiến,
Quanh quẩn chưa ra,
Nay được gặp Đạo,
Chẳng biết quí kính,
Ngổ nghịch cha mẹ,
Phản đạo lừa thầy
Vọng ngử gạt Tổ,
Phỉnh dối chúng sanh,
Những việc như thế
Cứ mãi tiếp tục
Rụi hết thánh tài
Huỷ luôn huệ mạng
Đến khi tận phước
Xác kiệt thần mê
Trở vào địa nguc ,
Làm sao tránh khỏi?
(Huệ Lộc)
Bài viết nhận định về "Mục Đích Sinh Hoạt Tăng Đoàn Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất" đến đây là hết. Mong mỏi những tu sĩ kia suy nghĩ lại mà cứu vớt tương lai của chính mình. Nếu cảm thấy tương lai mình với Tăng Đoàn nầy như kẽ đi trong đêm dài tăm tối, có nghĩa mình đã sai đường rồi, mong quí vị quay trở lại với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất càng sớm càng tốt. Bởi vì:
Nợ càng nhiều, trả càng lâu
Nghiệp gây càng lắm, khổ sầu càng thâm
Sân si chẳng bỏ phù trần
Mai kia tìm lại nhân thân? dễ gì ! (huệ lộc)
Đức Phật đã vì chúng sanh mà bỏ đi ngôi vị đế vương để tu thành Chánh Giác. Ngài Quảng Độ vì chư tăng vì Giáo Hội và vì tự do dân chủ của 90 triệu dân lành mà phải chịu để cho cộng sản giam cầm hầu như suốt cả cuộc đời, cũng là để cho quí vị được tự do bên ngoài, được yên thân tu tập, có chùa chiền, có tiền bạc, có tài sản cho từng bổn tự. Ơn đức của hai người nầy thật là lớn biết bao ! Vậy mà đến ngày hôm nay, quí vị vốn đã không trả ơn lại cho Ngài Quảng Độ được, mà cũng không thể từ bỏ cái Ma Đoàn nầy để trở về với chánh đạo. Tại sao khiếp nhược quá vậy? Nếu quí vị cứ tiếp tục con đường sai quấy nầy thì quí vị chính là ma dân đội lớp áo thầy tu như trong kinh Phật dạy vậy. Tứ chúng sẽ trừng trị loại ma sư như vậy. Kính chúc quí vị sớm thoát khỏi đêm dài lắm mộng. Thôi, mời anh dùng trà đi.
Huệ Lộc
Tôn Thắng Đạo Tràng
Cẩn bút
2/23/2014
Chúng con cầu mong các sư(?) CL,VL,VĐ,TH, KT…và các Phât tử(?) đang theo các sư nầy ĐỌC BÀI nầy và sớm SÁM HỐI ,trơ về vời CHÁNH-PHÁP, và chúng con chắc rằng Đức đệ 5 T,Thống sẽ RẤT HOAN HỶ ĐÓN NHẬN CÁC VỊ.
ReplyDeleteTHÂN KHẨU Ý CỦA CHÁNH LAC THIÊN/ÁC ĐÃ RÕ. NHÂN NÀO QUẢ ĐÓ. ĐÓ LÀ LỜI ĐỨC ĐIỀU NGỰ THÍCH CA ĐÃ DẠY TRONG CÁC KINH PHẬT, CÁC CON PHẬT TU TẬP THÂN-KHẨU-Ý CỐ TRÁNH ÁC-XẤU. SAO QUÍ NGÀI CÒN BAO CHE CHO CÁI NHÂN ÁC-XẤU ?
Chúng con là những con Phật đang ở VN, vì sinh kế thường ĐI QUA ThanhMinhTV, NƠI HT QUẢNG-ĐỘ ĐANG BỊ QUẢN CHẾ trong 1 căn phòng, cho đến ngày 14/2/2014 chúng con thấy tấm băng treo trước công chùa KHÔNG HỀ CÓ CÁC CHỮ ” GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM” như 2 trang Web của sư VL ở USA ĐÃ ĐƯA TIN TRÊN INTERNET.
Xin cuối đâu CẢM ƠN THẦY HUỆ-LỘC ĐẪ CHỈ DẠY THEO CHÁNH PHÁP.
Thank you so much.
ReplyDeleteBài nào của Huynh Huệ Lộc củng mang đến cho độc gỉa có cái nhìn tỏ tường sự việc .
You're the best.... Thanks a lots
LOI KEU GOI THIEN TRI THUC
ReplyDeleteKinh thua qui dao huu,
Tat ca nhung gi o vu tru nay deu la gia tao , phu du.. . Khi minh tu gia coi tran nay, khong ai dem theo tat ca hanh trinh minh co ma di ? ( xin loi qui vi , day chi lap lai phap cua Phat day ).
Hanh phuc duoc, la minh lam duoc viec minh mong uoc. !
Hanh phuc that la hanh phuc khong bao gio thay doi !
Xin qui dao huu cung toi nghi: Hanh phuc do co phai la hanh BO TAT khong ? thi hanh hanh BO TAT tuc la minh da duoc huong hanh phuc do ,minh cung nen chia se hanh phuc do voi nguoi khac .
Khi minh nghi den mot ton giao nao , ai cung deu nghi den viec dong gop de xay dung cho ton giao do luon duoc truong thinh !
Duy tri mot ngoi chua hay mot ton giao theo mot Phat tu thuong nghi : Di chua la nen co it nhieu dong gop ” cong duc ” nhu y tren.
Hoi qui dao huu , the he nay” vang thau lan lon ” , kho phan biet duoc dau la “that”, dau la ” ta ” .
“That” la cho tu hanh va truyen ba theo chanh dao cua Phat giao , cua mot chan tu. Cac vi tu hanh that su giu gioi theo luat nha tu , khong mang danh loi , khong bi loi keo boi hoan canh vat chat , nhat la hien nay (O My rat o troc va day quyen ru… sa doa. )
“. Ta” dao nhu chung ta da thay rat nhieu, Chua moc ra nhu nam, cho nao cung lap chua duoc ca (mot can nha nho , mot nha xe cung tao ra chua … .xem nhu la mot viec kinh tai va noi buon ban . “, Tu ” la mot nghe kiem tien do vat va , ai khon kheo thi mau lam giau ! Cac vi “SU” , ai ” kheo ” an , kheo noi , kheo bip bom , hap dan…thi loi cuon nhieu con ” chien ” ( da so nguoi vi “phu qui sanh le nghia ” , mot binh “ghien ” ton giao… khi co chut du thua vat chat….)
Kinh thua qui dao huu ,” tu bi” phai co ” tri tue” . Viec bo thi va viec dong gop la nen lam .
Lam cho dung nghia cua HANH BO TAT la luon luon sang suot giup cho dang giup,, cho can duoc giup. Khong nen giup nhung cho qua day du , qua tien nghi qua du thua nhu qui dao huu da thay hien nay cac chua lap quang cao tren ca dai truyen hinh van .van….quang cao moi mat nhu vay phai co loi nhuan cao de thu hut … LONG THAM KHONG DAY !
Qui dao huu nen so sanh xem nhung ai dang bi thieu thon vi song trong hoan canh tu day co lap , CONG SAN kiem soat , tu do khong co , tien tai , vat chat gioi han . Su thieu thon do khong bao goi keu reu ben ngoai. Hoi qui dao huu hao tam nghi xem :
..Ai la nguoi can duoc giup ?
Xin qui dao huu hay nghi den ma dam bot nhung su ” xa xi ” tieu pha , va mua ” vui ” choc lat khong loi ich de tim cai hanh phuc chan that mai mai cao dep ,dung voi nghia ” hanh phuc” that cua minh !
TICH GIO THANH BAO ! Mot dong bac cua qui dao huu , bot an sang cung lam duoc mot viec nghia cao
Xin da ta su kien nhan va tha thu cua qui dao huu doc vai hang nay.