Trong thời Đông Châu Liệt Quốc Xuân Thu có một câu chuyện đấu trí khá thú vị giữa Tôn Tẩn và Bàng Quyên. Tôn Tẩn vốn là cháu của Tôn Vũ là người đã viết ra mười ba thiên binh pháp rất nổi tiếng cho đến hiện nay. Bấy giờ đất Dương Thành thuộc địa phận nhà Chu. Có một nơi tên là Quỷ Cốc, nơi đó có một ẩn sĩ họ Vương tên Hũ, trước là bạn chí thân của Tôn Vũ, sau nầy là bạn của ông Mặc Địch nước Tống. Từ lúc Vương Hũ về ẩn ở Quỷ Cốc, vì ông tài ba lỗi lạc, một bậc thế ngoại cao nhân, nên người đời lúc đó gọi ông là Quỷ Cốc Tử Tiên Sinh.
Quỷ Cốc Tử Tiên Sinh chuyên dạy học trò các môn :
1) Số học ; 2) Binh học; 3) Du học (phương pháp du thuyết) 4) Xuất thế học (luyện phép tu tiên).
Quỷ Cốc Tử có rất nhiều môn đệ trong đó có bốn người sau nầy nổi tiếng trong lịch sử quân sư Trung Hoa. Bốn người đó là Tôn Tẩn, Bàng Quyên, Tô Tần, và Trương Nghi.
Bàng Quyên người nước Ngụy theo học Quỷ Cốc Tử về binh pháp hơn ba năm đã thành tài, nên xin phép Quỷ Cốc Tử xuống núi giúp Ngụy Vương làm đến chức Đại Tướng và cưới công chúa. Sau vì nể lời Ngụy Vương nên viết thư mời Tôn Tẩn hạ sơn giúp nước Ngụy.
Vua Ngụy từ khi gặp Tôn Tẩn sinh lòng kính phục và trọng đãi. Bàng Quyên lấy làm ganh tức quyết tâm ám hại, nên nói với vua Ngụy khoan cho Tôn Tẩn giữ chức vụ gì. Tuy nhiên bên ngoài thường hay thăm viếng Tôn Tẩn giả bộ tỏ tình bằng hữu thân quí. Tôn Tẩn tánh tình thật thà mà lại có chung thầy, nên kể hết lai lịch của mình cho Bàng Quyên biết.
Sau hơn nửa năm ở nước Ngụy, có một người lái buôn mang đến cho Tôn Tẩn một lá thư và nói:
- Tôi buôn bán ở xứ Chu có gặp thân nhân của tiên sinh là Tôn Bình và Tôn Trác xưng là anh em chú bác với tiên sinh, nên có biên một bức thư nhờ tôi đem đến Quỷ Cốc giao lại cho ngài, không ngờ về đó mới hay tin ngài về Ngụy rồi, nên tôi vội vã đến đây dâng bức thư nầy...
Tôn Tẩn ngạc nhiên hỏi mọi chi tiết về gia đình, người nọ liền trả lời đúng vanh vách. Tôn Tẩn quá sức xúc động.
Gã lái buôn nói:
- Nếu Tiên sinh viết thư hồi âm, tôi sẽ mang về giúp cho.
Tôn Tẩn không kịp nghĩ gần xa, liền viết thư thăm hỏi gia đình và cho biết mình sắp sửa làm quan ở nước Ngụy.
Sau đó không bao lâu, Ngụy Vương ra lệnh bắt Tôn Tẩn. Tôn Tẩn kêu oan. Ngụy Huệ Vương nói:
- Bà con ngươi ở nước Tề. Ta đối xử với ngươi không bạc, ngươi lại ăn ở hai lòng, tư thông với Tề quốc làm nội ứng đánh ta.
Nói rồi đưa bức thư trước đây Tôn Tẩn viết cho gia đình. Tôn Tẩn thấy thư đó quả của mình, nhưng trong đoạn tái bút, có ai đó mạo chữ mình thêm vào những điều tạo phản.
Nguỵ Vương truyền mang chém đầu, nhưng Bàng Quyên cản ngăn chỉ xin chém hết đôi chân đến gối vì muốn lưu lại mạng sống của Tôn Tẩn để tìm mẹo học Mười Ba Thiên Binh Pháp.
Câu chuyện trên còn dài, cuối cùng Tôn Tẩn được người quản gia của Bàng Quyên nói cho biết kế độc của Bàng Quyên và được Mặc Tử và Điền Kỵ bày kế cứu thoát đưa về nước Tề trị bịnh. Sau khi lành bịnh, Tôn Tẩn xin vua Tề nghị binh cùng sáu nước phá Ngụy. Tôn Tẩn hợp sức với đại tướng Điền Kỵ, dụng cách "giảm lò" dùng kế nghi binh, dụ Bàng Quyên đến Mã Lăng Đạo, xong sẽ dùng loạn tiển. Khi đuổi quân Tề đến Mã Lăng Đạo trời đã tối rồi. Bây giờ trên thân cây có hàng chữ mờ mờ, Bàng Quyên mới cho quân đánh lửa lên soi thì thấy hàng chữ viết rằng:"Bàng Quyên chết ở nơi đây." Bấy giờ Bàng Quyên mới nhớ ra là Mã Lăng Đạo, kinh hồn ân hận không kịp hàng vạn mũi tên bay ra tua tủa. Bàng Quyên than:
- Ôi! Ta đã làm cho thằng cụt nổi tiếng rồi!
Bàng Quyên bị mấy mũi tên găm vào mình, nhắm không thể chạy được, cũng không thể sống được nên rút gươm tự vẫn. Thật đúng như lời Quỷ Cốc Tử tiên đoán trước khi Bàng Quyên xuống núi:"Gặp Dê thì vinh hiển, gặp Mã thì nguy hiểm." (Lúc đầu tiên khi ra mắt Ngụy Vương, Bàng Quyên được đãi món thịt dê. Khi cuối cùng thua trận, Bàng Quyên chạy đến Mã Lăng Đạo thì chết ở đây." (Trích thuật tóm tắt từ quyển Khảo Luận Về Thời Đại Xuân Thu Chiến Quốc của Ngô Đình Phi, trang 927- 941)
Các vị Tăng sĩ trong thời mạt pháp cần để ý hai bài học quan trọng:
1. Mỹ Nhân Kế:
Gần đây trong nước Mỹ, Phật tử rất xôn xao bàn tán về nhiều câu chuyện có một số chùa bị mất về "mỹ nhân kế". Có rất nhiều những cô gái trẻ từ VN sang, giả bộ tu hành, tìm cách len lỏi vào sinh hoạt ở các chùa. Họ còn lại tìm cách thân cận gần gũi các vị chủ chùa bằng cách cúng dường trọng hậu lúc ban đầu, sau đó dùng nhan sắc của mình làm dao động tâm thần của các vị chủ chùa, rồi khi cơ hội tới họ xắp đặt những video và audio của những cảnh "chung đụng lén lút". Thế là cá vào rọ. Vị trụ trì mắc bẩy nên phải điều đình giao lại chùa mình cho nhóm lập kế hoạch "Mỹ Nhân kế" nầy.
2. Tình Ngay Lý Gian - Chuyện Xuân Thu tái diễn:
Chưa hết, đối với những trường hợp khác thì lại có nhóm khác, có kế hoạch khác lại tinh vi hơn. Một cách tổng quát, sau đây là một sự kiện có thể xảy ra nếu người "cúng dường" có dụng ý tính toán. Ban đầu họ chỉ cúng dường hàng tháng hay hàng năm có định kỳ, mặc dù gọi là cúng dường nhưng họ yêu cầu tu sĩ viết biên nhận với một số tiền là bao nhiêu. Thoạt xem thì như một đòi hỏi không có gì là quá đáng cho sự yêu cầu như thế. Vị tu sĩ nhận tiền "cúng dường "nầy một cách thờ ơ và không để ý tới con số ghi trong biên nhận và mục đích của sự nhận tiền là gì. Vị tu sĩ cứ nghĩ Phật Tử cúng dường là có tấm lòng tốt rồi, cần gì để ý đến chi tiết. Nhưng họ không ngờ chính điều nầy sẽ là nguyên nhân của sự tố tụng cũng như tranh chấp về chủ quyền của căn chùa của mình sau nầy. Tại sao vậy?
Trước nhất hãy xét đến số tiền cúng dường được ghi ra trong các biên nhận. Thí dụ như ghi "200", là nhận 200 đồng của ông Nguyễn Văn A, ngày... tháng... năm... Và vị tu sĩ cứ nhận và ghi như thế hàng tháng. Thí dụ mỗi tháng viết biên nhận là 200 đồng, cho đến 2 năm tổng cộng là 24 biên nhận giá trị nhận vào là 24 x 200 = 4800 đồng.
Như thế sau hai năm số tiền nhận vào từ sự "cúng dường " của một hội nào đó là 4800 đồng.
Một hôm có người đến phường khóm địa phương kiện vị tu sĩ nầy vì chùa đã mang một món nợ của hội một số tiền là 480000 đồng . Khi cơ quan hành chánh địa phương gởi thư báo mời đến chùa, vị tu sĩ mới ngạc nhiên và hỏi rằng tôi mắc nợ hội nầy từ lúc nào mà nay có giấy đòi nợ? Bấy giờ cơ quan công quyền sở tại mới đưa tất cả những biên nhận ra thì thấy thay vì là 200 đồng cho mỗi biên nhận thì đã có ai thêm vào hai con số không thành ra 20000 đồng, và phía dưới còn có hàng chữ là " hội cho chùa vay mượn". Thì bấy giờ vị tu sĩ phải trả lời những sự kiện thế nầy như thế nào? Có phải là có thể mất chùa luôn không? Nếu không thì cũng phải thuê mướn luật sư rất là lôi thôi phiền não.
Nếu là xứ Mỹ nầy thì chuyện gian trá như vậy khó có thể xảy ra, nhưng nếu ở Việt Nam là một nước không có nhân quyền, công an thì đàn áp và mắng nhiếc người tu hành hầu như hằng ngày. Công an cũng như chánh quyền sở tại thường hay hối lộ hoặc chuyên tính chuyện cướp giựt đất đai của người dân, thì làm sao vị tu sĩ nhận tiền cúng dường nầy có thể giữ được chùa mình một cách an lành? Mọi người chắc có lẽ cũng nhớ chùa Liên Trì của Hoà Thượng Không Tánh năm rồi bị phá sập. Họ chỉ bồi thường HT Không Tánh một căn nhà nhỏ ở ngoại ô bề sâu khoảng chừng 5 mét, không đủ làm thành một chánh điện, thì cũng nên cảnh giác về những trường hợp cướp giựt chùa chiền đã và đang xảy ra.
Còn nói về " Bố Thí Ba la Mật" hay "Bố Thí Vô Tướng" của một nhóm người, đã nói cúng dường thì phải cho ra mà không tính toán thì mới đúng. Nói bố thí Ba La Mật thì phải hiểu nghĩa "vô tướng" là "không có người bố thí" mà cũng "không có người nhận của bố thí", và cũng không thấy "vật được bố thí", nghĩa là không đòi hỏi gì hết, không mong cầu gì thì mới đúng, ngay cả biên nhận cũng không cần, như kinh Luận Bảo Vương Tam Muội nói "xem bố thí như bỏ đôi dép rách". Đôi dép hư rách, nếu đi chỉ làm đau chân, chứ chẳng có ích lợi gì cả, nếu có ai mang nó đi nơi khác thì lòng mừng rỡ, mà không hề tưởng nhớ nó nữa. Dù có bố thí được như vậy cũng chỉ là Ngoại Thí mà thôi, cũng chưa được gọi là Bố Thí Ba La Mật. Những ai bố thí còn đòi biên nhận biên lai chính là có dụng ý, như thế thì đã có "tướng" rồi, nên không phải là "bố thí vô tướng" gì nữa cả. Có những kẻ phàm phu sát đất, nghe lóm đôi chút về văn kinh rồi khoe khoang, tự giải thích kinh điển Phật giảng bằng vọng tưởng làm mê hoặc những Phật tử sơ cơ, khinh thường kinh điển, học đòi tà kiến, làm tăng thượng mạn, cho của ra chút ít tự cho mình hành pháp Bố Thí Ba La Mật. Trong kinh Kim Cang Đức Phật còn chưa dám nói là có pháp Bố Thí Ba La Mật để tu, vậy những người nầy tài giỏi gì mà tìm đâu ra pháp Bố Thí Ba la Mật để hành? Không làm mà nói đã làm, buông lời vọng ngữ, che đậy, khó tin, như thế là làm ngược điều Đức Thế Tôn chỉ dạy, thật là tội Báng Pháp nặng nề khó tránh, ngang hàng như Ngũ Nghịch. Thế gian nầy chỉ có các đại Bồ Tát mới thông suốt và thường tu pháp Vô Sở Đắc tức pháp môn thứ bảy Quyền Phương Tiện Ba La Mật còn chưa dám tuyên bố là đang hành pháp Bố Thí Ba La Mật, vì sao? Vì Bố Thí Ba La Mật chính là Bồ Tát Đạo, mà Bồ Tát Đạo không phải là Đạo dễ tu! Trong quyển Đại Trí Độ 1 còn ghi một câu chuyện, trong một kiếp xưa khi còn hạnh Thanh Văn, Ngài Xá Lợi Phất phát nguyện tu Bồ Tát Đạo. Một hôm có một Bà La Môn đến xin đôi mắt Ngài để làm thuốc chửa bịnh mù cho mẹ. Ngài vì tu hạnh Bồ Tát muốn trọn nên đạo cả, nên tự khoét đôi mắt mình mà đưa cho gã Ba La Môn. Khi gã Bà La Môn được đôi mắt, chẳng những không cám ơn mà còn liệng xuống đất, xong lấy chân chà lên nói rằng: "Đôi mắt của ông xấu quá không thể dùng làm thuốc cho mẹ tôi được." Ngài Xá Lợi Phất nghe xong phát tâm buồn giận và nói: " Đạo Bồ Tát quá khó như vậy làm sao ta tu được." nên bỏ luôn Bồ Tát Đạo. Các ông bảo rằng các ông làm "Bố Thí Ba La Mật". Lời nói có thật không? Nay hỏi:
* Các ông có dám bố thí đôi mắt nếu có người đến xin không?
* Các ông có dám bố thí hết những điều sở hữu như nhà cửa tài sản ruộng vườn tiền trong ngân hàng... khi có người đến xin không?
* Các ông có dám bố thí tay chân máu tuỷ, moi hết nội tạng cho người tật bệnh khi họ đến xin không?
* Các ông có dám vào tù ngồi cả đời để tranh đấu cho nhân quyền và sự tự do tôn giáo không?
* Các ông có nhẫn chịu sự mắng chưởi nguyền rủa chà đạp nhân phẩm của bọn cường quyền bạo ác để bảo vệ chánh nghĩa không?
* Các ông có dám bỏ hết tất cả các điều sở hữu như danh xưng hội đoàn... nếu có người đến xin chăng?.....
Hay là các ông chưởi mắng liền nếu có ai mà dám đụng vào hội của các ông? Các ông đã làm những điều gì? Có tự thấy những vọng ngữ và ác ngữ của mình chăng? Hãy nhìn lại những văn tự và hình ảnh mình đã đăng trên website của mình đi.
Nếu làm không được những điều như vậy, thì đừng bao giờ tự xưng mình đang hành bố thí vô tướng hay bố thí ba la mật gì lôi thôi. Bỏ lìa tánh dối gian, ích kỷ, bỏn xẻn, và hung hăng còn chưa xong. Bất quá thì cũng chỉ là hạng phàm phu sát đất, trí tuệ thấp thỏi chưa ra khỏi cái Ngã tướng to lớn như núi Tu Di, lòng sân hận sôi tràn như biển động, cho của ra chút ít tự khoe khoang đã thực hiện đạo pháp cao siêu, có ai nói điều trái lại thì nổi căm thù như gươm dáo tủa ra đầy cả hư không. Tự tuyên bố cho mình Bố Thí Ba La Mật mà tự tâm nhỏ hẹp, nhiểm ô, thì làm sao gọi là Bố Thí Ba La Mật được, lời nói như thế có khác gì với Đại Vọng Ngữ. Trong kinh Tạp Thí Dụ có kể lại một câu chuyện tên là "Tự Khen Đức Hạnh Của Cha Mình." như sau:
"Một ngày nọ, có một người ở giữa đám đông khen ngợi đức hạnh của cha mình và nói:" Cha tôi rất nhân từ, không bao giờ giết hại, không trộm cướp, không vọng ngữ, và thường bố thí giúp đỡ mọi người."
Bây giờ có một anh chàng khác nghe thế cũng nói:"Đức hạnh của cha anh chỉ có vậy thôi ư? Như thế mà khoe cái nổi gì. Đức hạnh cha tôi còn hơn thế nữa!
Đám đông nghe nói liền nhao lên hỏi: "Thật ư? Anh nói cho chúng tôi nghe xem."
Anh nọ mới nói: " Cha tôi từ bé đã đoạn tuyệt dâm dục, chưa bao giờ có sự ô nhiễm về vấn đề nam nữ."
Có một người hỏi:" Nếu vậy, thì anh không phải là con ruột của cha anh sao?"
Anh chàng "nói khoét" đuối lý nên không dám cãi lại một lời nào....
Hiện nay trong dư luận quần chúng Phật tử, lại có một nhóm người "nói khoét" như thế lên tiếng bảo rằng chúng tôi rất yêu thương và tội nghiệp cho Đức Tăng Thống tại quê nhà. Lời nói thoạt chừng nghe như thống thiết bi ai, nhưng họ lại chủ trương và vận động triệt hạ các thành viên rường cột của GHPGVNTN. Bấy giờ có người hỏi :" Các ông bảo rằng thương Đức Tăng Thống , nay các ông bảo triệt hạ các ông Ái , Ông Cầu rồi, thì còn ai bảo vệ Đức Tăng Thống và Chư tăng?" Nhóm người nầy liền đuối lý không thể trả lời được. Té ra là họ có thương tiếc Đức Tăng Thống hay GH gì đâu, mà chực hờ để phá hoại lại GH. Rõ là "Lời nói ác như lưởi búa từ miệng ra trở lại chém mình." Lời nói bất nhân bất nghĩa dù có che đậy bằng bao nhiêu từ hoa mỹ thì người ta cũng thấy trong lời nói có dao gươm.
Các ông viết bài chưởi mắng cư sĩ Võ Văn Ái và cư sĩ Lê Công Cầu và đòi hất họ ra khỏi GH tức là đang phá hoại sự hoà hợp Giáo Hội. Miệng nói thương yêu Đức Tăng Thống mà kỳ thực chẳng yêu thương gì Ngài. Những điều như vậy, chiếu theo Kinh Ngũ Giới Tướng Ưu Bà Tắc và Bộ Ma Ha Tăng Kỳ thì đây là hai tội Ngũ Ngịch:
1. Thứ nhất là Đại Vọng Ngữ:
a. Không Bố Thí Ba La Mật mà bảo mình Bố Thí Ba La Mật.
b. Không thương yêu gì Đức Tăng Thống mà bảo mình thương yêu Đức Tăng Thống, rồi thừa cơ đánh phá các vị cư sĩ thành viên đang bảo vệ Ngài.
c. Diễn giải sai lệch ý nghĩa của bản Thông Bạch của VHĐ: Nội dung bản Thông Bạch ngày 26 tháng 4, 2017 kêu gọi các hội từ thiện cúng dường GH qua Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội như điều số 4 của bản Thông Bạch, thì lại mang đi giải thích nội dung bản Thông Bạch là ngăn cấm mọi hội từ thiện cúng dường cho GH. (Xem nguyên văn của bản Thông Bạch phía dưới.)
d. Nói lời Ác Khẩu cho cư sĩ Nguyên Chánh. Cư sĩ Nguyên Chánh vì thấy phản ứng không tốt đẹp của các ông đối với VHĐ sau khi bản Thông Bạch ban hành nên vội gởi điện thư đến các ông để bày tỏ nỗi lòng. Trong điện thư đó cư sĩ Nguyên Chánh không có lỗi lầm gì trong bản Thông Bạch, và cũng chẳng có nhận lỗi gì với các ông. Thế mà trong lá tâm thư kính dâng HT Thích TQ ngày 16 tháng 5, 2017, các ông lại nói rằng cư sĩ Nguyên Chánh nhận lỗi với các ông và lại nói cư sĩ Nguyên Chánh đã xác quyết đã tự biên tự diễn bản Thông Bạch theo sự nhận thức sai lệch, méo mó. Dưới đây xin trích ra một đoạn trong bức tâm thư của các ông kính dâng lên HT Thích TQ:
Trích :" Kính bạch Hòa thượng Viện trưởng,
Nhân nhận được điện thư của ông Nguyên Chánh Lê Công Cầu, Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo gởi đến, ông Cầu đã biện minh một số sự kiện thiếu trung thực và cuối cùng ông bảo rằng “hãy để tội tôi mang, nếu tôi có tội”. Một cách trực tiếp, ông Lê Công Cầu đã xác quyêt ông đã tự biên tự diễn bản Thông Bạch theo sự nhận thức sai lệch, méo mó của ông.
Chúng con xin kính trình Hòa thượng về những lời lẽ của ông Cầu trong bản Thông Bạch." (hết trích)
Tại sao quá ác tâm vậy? Cư sĩ Nguyên Chánh có bao giờ nói những điều đó trong bức điện thư gởi cho các ông đâu? Cư sĩ đã tâm sự giải thích những sự khó khăn của GH được gây ra từ các việc mà các ông đã làm, thì các ông đã không xin lỗi , cũng không thông cảm cho người ta thì thôi, cớ sao còn bóp méo sự thật, thay đổi lời giải thích của cư sĩ Nguyên Chánh bằng lời buộc tội lại cư sĩ Nguyên Chánh? Đó là Ác Khẩu, các ông có biết chăng? Chính vì thế mà PTTPGQT mới cho đăng trọn vẹn lá thư của cư sĩ Nguyên Chánh lên mạng. Tôi đính kèm theo bài nầy. Thử đọc xem, trong bài điện thư của cư sĩ Nguyên Chánh, có câu nào nhận lỗi không? Có câu nào nói rằng cư sĩ Nguyên Chánh đã tự diễn tự biên bản Thông Bạch không?
Trong pháp tu Thập Thiện có mười điều:
Ba nghiệp của thân là: Sát sanh, trộm đạo, tà dâm
Bốn Nghiệp của khẩu: Vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, và ỷ ngữ
Ba nghiệp của ý: Tật đố, sân nhuế, tà kiến
Pháp tu Thập Thiện là do Phật dạy. Là con đường tiến hoá từ người đến trời; từ trời đến các quả Thánh rồi tới Phật địa. Ngược lại Thập Ác là con đường đau khổ lui sụt từ người trở xuống ngạ quỷ, súc sanh, và địa ngục. Trong mười điều nầy các ông phạm ác hầu như gần hết. Như vậy thì làm sao tránh khỏi cái khổ "vô cùng" trong tương lai? Các ông dù có sức mạnh hay thần thông dời non lấp biển, chỉ đá hoá vàng, cứu người sống lại chăng nữa cũng không thể nào đương cự được nghiệp lực đã tạo gây. Kinh còn ghi lại:" Thông minh bất năng địch nghiệp, phú quý khởi miễn luân hồi." có nghĩa là dù cho có tam minh lục thông cũng không đánh thắng được nghiệp lực. Dù có giàu sang phú quí cở nào chăng nữa, bỏ ra bạc tỷ mướn ngàn muôn ức thầy tu tụng kinh siêu độ, cũng không thể khỏi kiếp luân hồi. Xin ghi nhớ điều đó! Xin nhớ ghi điều đó!
2. Thứ hai là tánh cách phá hoại Giáo Hội:
a. Cúng dường không đúng pháp, làm cho Chư Tăng Giáo Hội bất an và lo sợ như các điều 2, 3, 3-1, 3-2, và 3-3 của bản Thông Bạch ngày 26 tháng 4, 2017, nên vị Viện Trưởng VHĐ phải ra bản Thông Bạch ngăn lại sự "cúng dường" trái pháp nầy, tuy nhiên vẫn cho phép cúng dường qua Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội như trong điều 4. (Xem nguyên văn của bản Thông Bạch phía dưới.)
b. Viết nhiều bài vọng ngôn công kích các Tăng Viện Trưởng và các thành viên của Giáo Hội sau khi bản Thông Bạch của VHĐ được công bố ngày 26 tháng 4, 2017.
Hành động Ngũ Nghịch kết quả phải bị rơi vào Đại Địa Ngục không thể cứu được. Nếu các ông nói rằng không phá hoại Giáo Hội mà chỉ muốn đánh gục các thành viên lãnh đạo của Giáo Hội mà thôi thì lại không đúng nữa. Vậy hỏi: Có ai kêu bảo quí vị làm điều đó không? Giáo Hội có nhờ quí vị làm không? Hay là quí vị tự cho mình có lẽ phải rồi xông vào đánh cho tan nát Giáo Hội người ta? Đây là hành động phá hoại sinh hoạt Giáo Hội Tăng Đoàn. Ngũ Nghịch là trọng tội trong Luật Tạng Phật Giáo mà Phật đã ban ra và Tứ Chúng cùng Thiên, Long, Bát Bộ Quỷ Thần phải thi hành. Những kẻ có lỗi nặng mà không sám hối thì đầu tiên tâm sẽ không yên, kế bị mất hết pháp danh, pháp hiệu, lời nói chẳng ai tin, sau đó lãnh chịu nhân quả của việc mình làm như kinh điển ghi chép. Người Phật tử có qui y là những người tin vào Phật, Pháp, và Tăng, tức là tin sâu vào nhân quả và kinh luật. Nếu là Phật tử, quí vị cần phải sám hối mới mong giảm được phần nào tội lỗi. Nếu không Sám Hối, thì điều đó cũng chứng tỏ các vị là những kẻ "vừa đánh vừa xoa". Thế thì nên Sám Hối để thọ lại ngũ giới và tam qui, thì lương tâm quí vị cũng bớt bị cắn rứt. Đó không phải là điều tốt cho quí vị hay sao? Đối với những kẻ phạm luật Phật và làm ác như thế mà không sám hối, Đại Chúng không thể gần gũi với họ, cũng không thể nhận họ làm bạn lành giao thiệp được. Trong Kinh Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng, trang 53, đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
"Này chư Tỳ Kheo! Ta có hai thứ thân: Sanh Thân (thân hiện sanh kết bằng tứ đại còn gọi là Hoá Thân, còn gọi là Phật) và Giới Thân (Thân kết bằng Giới Đức còn gọi là Pháp Thân, còn gọi là Như Lai). Nếu thiện nam thiện nữ nhân vì Sanh Thân ta xây dựng tháp thất bảo cao chí đến cõi trời Phạm Thiên để cúng dường, có kẻ nào phá hoại tội kia còn có thể sám hối. Còn kẻ nào phá hoại Giới Thân của ta (tức phá giới hoặc tự phá giới hay phá giới kẻ khác) chính là phá hoại Như Lai Pháp Thân, so sánh với cái tội Sanh Thân còn nặng nề hơn nhiều, phải chịu vô lượng khổ..."
Lời Phật nói không bao giờ sai lầm, như nước mưa rơi thì phải rơi từ trên xuống; như đốt lửa cháy thì phải cháy từ dưới bốc lên, không thể đi ngược lại. Nguyên lý nhân quả muôn đời bất di bất dịch. Thế gian vũ trụ chuyển động, các lực hấp dẫn biến hoá, các nguyên lý bảo toàn năng lượng, các phương trình vật lý, hoá học ứng dụng, các tế bào vi phân sinh biến trong mọi loài sinh vật, các dụng cụ tiên đoán thời tiết khí hậu, các máy vi tính điện tử tìm hiểu cơ thể bên trong và thế giới vũ trụ không gian xa thẳm, súng ống đạn dược khí giới, tàu ngầm, phi thuyền thám hiểm...cho đến tất cả những y học phục vụ cho nhân loại như các dụng cụ định bịnh, phòng bịnh, trị bịnh, và tất cả các phẩu thuật mỗ xẻ.... không đâu không có nhân quả. Nhân gây thì quả đến liền, nếu không thì cũng chờ duyên mà thành. Chạy sao ra khỏi trời xanh, trốn người thì được, trốn mình nơi đâu? Quí vị phải biết kinh sợ để tự cứu về sau, nếu để chuyện qua rồi thì ăn năn không còn kịp nữa! Lở mất kiếp người thì vô số a tăng kỳ kiếp về sau khó mà trở lại. Nay nhân lúc còn có thể cứu chửa được, Tôi chỉ pháp Sám Hối cho quí vị như sau:
1. Trước nhất là có tâm nhận biết tự mình xấu xa và hổ thẹn (tàm, quí)
2. Thứ hai, có tâm ăn năn hối hận tự kể tội của chính mình đến với các bậc Đại Đức bằng lời nói và văn tự như emails hay trên websites để nhờ sự chứng minh.
3. Thứ ba, viết thư công bố với tất cả Tứ Chúng Phật tử những ai đã từng đọc những bài viết của mình qua trang webs hay emails hay qua phone.... với lời nhận lỗi và hứa không tái phạm để tự mình bắt đầu xây dựng một đời sống thọ trì tam qui, ngũ giới lại.
4. Thứ tư, viết thư xin lỗi những người mà mình đã xúc phạm.
5. Thứ năm, phải thường xuyên thọ trì đọc niệm danh hiệu của Đức Tăng Thống, cũng như danh hiệu các vị Phật mỗi ngày sáu thời để sám hối (như trong Kinh Di Lạc Thượng Sanh).
Có sám hối như thế thì mới mau hết tội lỗi do mình gây tạo.
Sau đây là pháp ngữ phải xướng lên khi Sám hối:
"Tội do tâm tạo bao đời,
Mang tâm sám hối, tội thời tiêu vong.
Tội vong, tâm diệt đều không,
Chơn tâm sám hối, tội đồng tiêu tan.
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát (nhiều lần)"
Có tội mà không sám hối, chắc chắn khi nhân quả chín muồi, phải rơi vào tam ác đạo, muôn kiếp luân hồi chịu nhiều điều quả báo khổ đau, khó thể thoát thân. Giống như kẻ phạm tội nặng, bị quan toà phán tội lãnh án tù ngục chung thân. Tội do thân làm thì còn có ngày ra khỏi, nhưng tội do Tánh giới thì theo mãi muôn đời. Tội Đại Vọng Ngữ và phá hoại Giáo Hội Tăng Đoàn thuộc về Tánh giới nên mới lãnh quả báo nặng như thế. Thật đáng thương thay! Đáng thương thay!
Trong quyển Đại Trí Độ 1, trang 565 có ghi lại một câu chuyện:
"Đề Bà Đạt Đa có lần sanh ác tâm, xô đá đè Phật, nhưng Lực Sĩ Kim Cang lấy chày Kim cang từ xa ném tới đánh bể hòn đá lớn, mảnh vụn của hòn đá bay lại chỉ làm bị thương ngón chân Phật. Tỳ-Kheo Ni Hoa Sắc mắng, Đề Bà Đạt Đa đấm vào mặt vị nữ Ni nầy. Tỳ Kheo Ni Hoa Sắc bị trúng đấm của Đề Bà Đạt Đa vào mặt nên bị lòi mắt mà chết. Đề Bà Đạt Đa đã gây ba tội Ngũ Ngịch, lại kết thân cận với tà ác sư ngoại đạo Phú Lan Na... dứt hết thiện căn, tâm mất hết tàm quí, không biết hổ thẹn.
Lần cuối cùng, Đề Ba Đạt Đa tẩm thuốc độc vào trong móng tay, muốn nhân trong khi lễ Phật để làm trúng thương Phật. Đang khi khởi hành cởi xe ngựa vào chưa tới thành Vương Xá nơi chỗ Phật ngự, thì đất tự nhiên nứt ra, trong lòng đất xuất hiện xe có lửa chạy đến đón, Đề Bà Đạt Đa đang sống mà rơi vào địa ngục vì tội quá nặng nề, không chờ đến chết.
Thưa quí vị "Đức tự tâm sanh". Chuyện đời hên xui may rủi không phải tự nhiên mà đến. Kẻ vướng vòng lao lý tù tội cũng không phải tự nhiên mà mắc; bịnh tật nơi thân xảy ra cũng không phải tự nhiên mà có. Tất cả đều do có nguyên nhân gây tạo. Nguyên nhân tạo ra số phận của đời ta không ngoài hành vi thân, khẩu, ý của chính mình gây tạo. Quy Sơn Cảnh Sách có ghi:"Trồng đậu hưởng đậu, trồng bắp hưởng bắp". Lời ghi trong kinh sách tuy đơn giản, nhưng nói lên một đạo lý nhân quả "làm chi lãnh nấy" đang chi phối đời sống luân hồi của tất cả chúng sanh. Chớ nên buông tâm khi dễ, để rồi nước đến trôn thì không sao nhảy được. Còn các quí vị khác ở ngoài nhóm người nầy, nếu không tiếp tay hay tán đồng với họ tức cũng đã giúp đỡ cho GH rồi. Còn như có thêm hành động bảo vệ chánh nghĩa, lên tiếng chống lại lý lẽ nguỵ biện của những kẻ nầy thì cũng như tích lũy âm đức để dùng cho những kiếp về sau. Tại sao vậy?
Trong Kinh sách còn ghi lại một câu chuyện ông Vệ Trọng Đạt. Xưa kia có người tên là Vệ Trọng Đạt làm quan tại Hàn Lâm Viện. Có một lần nọ bị âm ty bắt hồn xuống âm phủ. Quan Diêm Vương bảo thuộc hạ mang hồ sơ việc làm ở nhân gian của ông Vệ ra xem. Khi sổ sách dâng đến, biết được việc xấu tại nhân gian của ông Vệ chồng chất như núi, còn việc lành thiện thì ít không đáng kể. Diêm Vương bảo mang cân thử hai chồng sách ấy xem, nào ngờ đống sách ghi việc xấu lại nhẹ hơn đống sách ghi việc tốt.
Ông Vệ khó hiểu quá, nên hỏi Diêm Vương: " Tuổi của tôi chưa tới bốn mươi, làm gì nhiều tội lỗi như thế?"
Diêm Vương đáp: "Chỉ cần có một ý nghĩ bất chánh là tội ác rồi, đâu phải đợi đến hành động. Ví như trông thấy con gái có nhan sắc mà nẩy sinh một ý nghĩ xấu, là đã phạm phải luật Nhân Quả rồi".
Ông Vệ hỏi thêm: "Như thế, xin hỏi trong quyển làm lành ghi những gì?"
Diêm Vương nói: "Có một lần nhà vua muốn xây cất cung Đại Phủ ở Phúc Châu, bắt nhiều dân đi làm khổ công, ông dâng sớ thượng tấu Vua không nên làm. Quyển sách ghi việc lành của ông đây chính là bản nháp tấu chương của ông." Diêm Vương nói tiếp:" Lần ấy kiến nghị của ông không được vua chấp thuận, nhưng tâm niệm tốt nầy của ông, vì nghĩ đến đại chúng, muốn đại chúng khỏi khổ cực, do đó mà được việc thiện rất lớn. Nếu đương thời Vua làm theo kiến nghị của ông, thì sức mạnh của việc thiện này còn sẽ lớn hơn hiện tại rất nhiều."
Thưa quý vị đạo hữu, Kinh nói “ ghiệp lực bất khả tư nghị", mà Kinh cũng nói "Phật Pháp không thể nghĩ bàn" có nghĩa là khi nghiệp đến không ai tránh khỏi, nhưng nếu tu dưỡng Phật pháp thì có thể thoát khỏi được. Thiện Tâm có Công Đức to lớn có thể hoá giải được nghiệp lực do mình gây tạo. Vậy chỉ cần có tâm niệm thiện lành quang minh chánh trực tất sẽ gặt hái nhiều quả phước, do đó mà đời sống của mình ngày càng giảm khổ đau.
Những lời khuyên như thế cũng vì lợi ích cho bản thân các ông. Nếu các ông không thích thì cũng đừng để ý tới. Nhưng điều quan trọng là đừng tạo gây thêm ác nghiệp nữa.
Kính chúc các đạo hữu thân tâm thường an lạc,
Huệ Lộc
Tôn Thắng Đạo Tràng
5/26/2017
*************************************************************
Ghi chú : Copy của Bản Thông Bạch ngày 26 tháng 4, 2017
THÔNG BẠCH
Về việc gửi tịnh tài ủng hộ Giáo hội trong nước nói chung,
và trường hợp Hội Phật tử Cố HT Thích Như Đạt nói riêng
-----------------------
VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
Kính gởi :
- Chư Tôn Giáo Phẩm Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN
- Hòa Thượng Chủ tịch Hội Đồng Điều hành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ
- Các Đoàn thể và Đồng bào Phật Tử trực thuộc GHPGVNTN
Kính thưa Chư Liệt Vị.
Mấy mươi năm qua, sự hoạt động và sống còn của Chư Tôn đức Tăng Ni thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) đều nhờ sự hậu thuẫn đóng góp của đồng bào Phật tử trong nước. Phần khác, có thêm sự cúng dường của Chư Tôn đức Tăng Ni và đồng bào Phật tử các giới ở hải ngoại tự phát gửi về giúp đỡ.
Cho đến năm 1992, theo lời dạy của Đức Cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, lần đầu tiên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại được thành lập tại Hoa Kỳ. Từ đó nguồn hậu thuẫn tịnh tài được chư Tăng Ni thành viên GHPGVNTN tuỳ hỉ gửi thêm, hoặc quỹ Giáo hội cáng đáng tuỳ khả năng mỗi năm.
Mấy tháng vừa qua, một số quý Ngài thuộc Hội Đồng Lưỡng Viện nhận được tịnh tài cúng dường của một tổ chức mang tên « Hội Phật tử Cố Hoà thượng Thích Như Đạt » là hậu thân của « Foundation Thích Thiện Minh » ra đời tại Hoa Kỳ giữa năm ngoái 2016. Sự cúng dường ấy vô tình hay cố ý được công bố trên mạng internet làm cho nhiều Phật Tử trong và ngoài nước thắc mắc, gây nhiều ngộ nhận. Nhiều Phật tử trình lên Hoà thượng Thích Huyền Việt, Chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTN-HN/HK) và đã được Hoà thượng ra Thông bạch ngày 26.6.2016 giải thích, và xác nhận tổ chức nói trên không thống thuộc GHPGVNTN-HN/HK, và việc quyên tiền này không là chủ trương của Giáo hội.
Nay Viện Hóa Đạo xin minh định các điều sau đây :
1/. Viện Hoá Đạo rất tán thán nỗ lực cá nhân của chư Tăng Ni và đồng bào Phật tử nước ngoài, do tình tượng trợ cùng những liên hệ mật thiết với GHPGVNTN, đã gửi tịnh tài hậu thuẫn Gíao hội trong nước hàng chục năm qua.
2/. Do Giáo hội đang ở trong tình trạng bị nhà đương quyền bách hại, chụp mũ, khủng bố, nên Giáo hội không thể nhận tài chánh đến từ các tổ chức không thống thuộc hay liên hệ hữu cơ với GHPGVNTN, nên Giáo hội không thể tiếp nhận.
3/. Vì vậy, trường hợp mấy tháng qua « Hội Phật tử Cố Hoà thượng Thích Như Đạt » gửi tiền ủng hộ một số chư Tăng giáo phẩm hay Cư sĩ trong Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, kể từ nay Giáo hội không thể tiếp nhận vì ba lý do sau đây :
3-1/. « Hội Phật tử Cố Hoà thượng Thích Như Đạt » không là thành viên hay đơn vị trực thuộc GHPGVNTN-HN/HK. Tuy Hội lấy đối tượng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm mục tiêu quyên góp tiền bạc, nhưng chỉ nhắm ủng hộ riêng một số cá nhân chư Tăng hay Cư sĩ, chứ không đặt trọng tâm cúng dường Giáo Hội. Từ trước đến nay, Giáo Hội không hề được thỉnh thị ý kiến hay bàn bạc gì về việc thành lập tổ chức hay công trình quyên góp tài chánh nầy.
3-2/. Một tổ chức quyên góp tiền bạc của công chúng, nói là để hậu thuẫn GHPGVNTN mà chẳng những không gia nhập Giáo Hội, lại lấy Pháp hiệu của một vị Cao Tăng Lãnh Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một xúc phạm Cố Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Như Đạt. Nên Viện Hóa Đạo và Môn Đồ Pháp Quyến không chấp nhận hành vi nầy.
3-3/. Việc lạm dụng tên tuổi như trên vô tình gây ngộ nhận trong cộng đồng Phật giáo, làm cho nhiều Phật Tử tưởng rằng đây là một tổ chức thành viên của GHPGVNTN, nên ra tay đóng góp tài chánh. Từ ngộ nhận này sinh ra ngộ nhận khác khiến đồng bào Phật tử đánh đồng sự lên tiếng hay bài viết của những người cầm đầu Hội là chủ trương, đường lối của GHPGVNTN. Thực tế đã phơi bày một lập trường bấp bênh, mâu thuẫn, khi các vị cầm đầu tổ chức « Foundation Thích Thiện Minh » là tiền thân của « Hội Phật tử Cố Hoà thượng Thích Như Đạt » từng tuyên bố trong nội bộ hội viên, rằng Hội chỉ ủng hộ Đức Đương kim Tăng Thống Thích Quảng Độ, nhưng không liên hệ gì với GHPGVNTN trên phương diện hành chánh và tài chánh, đặc biệt là không tuân thủ Hiến chương của GHPGVNTN.
4/. Nếu quý vị có lòng trung kiên và thương yêu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thì hãy gạt bỏ mọi vấn đề cá nhân, đem lòng nhiệt thành bảo vệ và tôn trọng bản Hiến Chương của Giáo Hội đang bị nhà đương quyền Cộng sản đặt ra ngoài vòng pháp luật. Hãy tham gia vào Tổng Vụ Tài Chánh hoặc Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội của Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN/HK thì mới danh chính ngôn thuận giúp Giáo Hội duy trì và phát triển. Vừa Chánh tri kiến, vừa Chánh tư duy để ngăn chận các âm mưu phân hóa Giáo Hội như đã tấn kích liên tiếp vào Phật giáo suốt 42 năm qua.
5/. Việc vô tình hay cố ý công bố danh sách Chư Tôn Đức và Cư sĩ được cúng dường trên mạng internet gây tổn thương danh dự cho một số Chư Tôn Đức và gây ngộ nhận cho Phật tử, vô tình tạo sự cho nhà đương quyền địa phương đánh phá.
Do đó, Viện Hóa Đạo yêu cầu quý vị cầm đầu « Hội Phật tử Cố Hoà thượng Thích Như Đạt » hoan hỉ chấm dứt việc quyên góp nhân danh GHPGVNTN và cúng dường theo cung cách quý vị thực hiện mấy tháng qua.
NAM MÔ THƯỜNG HOAN HỶ BỒ TÁT MA HA TÁT
Phật lịch 2560, Tu Viện Long Quang,
ngày 26 tháng 4 năm 2017
Viện Trưởng Viện Hoá Đạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
(ấn ký)
Tỳ Kheo THÍCH THANH QUANG
---------------------------------
Bản sao :
- Kính thượng trình Đức Đệ Ngũ Tăng Thống “kính thẩm tường”
- Kính trình Chư Tôn Đức Hội Đồng Lưỡng Viện “kính tường”
- Kính gởi HT Chủ Tich HĐĐH/GHPGVNTNHN/HK “kính tường”
- Kính gởi GS Giám Đốc PTTPGQT “kính tường và kính xin phổ biến”
- Lưu./.
******************************************************
Lê Công Cầu :
Vài ý kiến về bài viết
« Tâm Thư kính gởi HT Thích Huyền Việt »
Qua bài viết tôi thấy có những điều cần nói rõ :
1/. Thông tư của HT Thích Huyền Việt và Thông Bạch của HT Viện Trưởng Viện Hoá Đạo không có điều nào nói quý vị vi phạm Hiến Chương hết, vì quý vị có nằm trong GHPGVNTN đâu, mà chỉ kêu gọi quý vị tôn trọng Hiến Chương, mà Phật tử tôn trọng Hiến Chương, thương Giáo Hội, thương Đức Tăng Thống thì đừng lập ra Đoàn nầy Hội nọ gây thêm phân hóa. Hãy tham gia Giáo Hội để mọi hoạt động danh chính ngôn thuân mà thôi.
2/. Quý vị nói là thương Giáo Hội, thương Đức Tăng Thống, muốn giúp đỡ Giáo Hội nhưng quý vị có đóng góp vào Quỹ Giáo Hội đồng nào đâu ? Mỗi lần có việc, Giáo Hội rất khốn đốn, phải nhờ Phòng Thông Tin Phật giáo Quốc tế kêu gọi Phật tử giúp đỡ. Chủ nhật vừa qua (7.5.2017) tôi vào vấn an Đức Tăng Thống, nhân tiện tôi qua chùa Từ Hiếu để gặp Hòa Thượng Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Tài Chánh xem quỹ Giáo Hội còn được bao nhiêu, thì hỡi ôi ! quỹ còn được 7 triệu 718 nghìn Đồng VN (tương đương 340 Mỹ kim) nên tôi chẳng dám xin trích xuất cho một vài hoạt động như giỗ chị Lê Thị Tuyết Mai vị pháp thiêu thân sắp tới, hay đưa Đức Tăng Thống đi khám định kỳ…
3/. Quý vị trực tiếp lên danh sách Chư Tăng và Phật tử để cúng dường, mà không tham khảo Gíao hội quê nhà nên quý vị không hề biết tại quê nhà ai cần, ai đau ốm, ai giàu, ai nghèo, cứ cúng như một nguyên tắc cứng nhắc như vậy nó không một chút thực tế nào hết, nên gây nhiều cảnh xót xa : người cần không có, người có không cần.
4/. Ông Ái chẳng liên quan gì đến các Thông Bạch trên, HT Viện Trưởng và Chư Tăng quyết định, tôi là người soạn văn bản và gởi cho Phòng Thông Tin Phật giáo Quốc tế, Ông Ái thực thi trách nhiệm của mình, cứ việc chi cũng quy tội Ông Ái là sao ? Hãy để tội ấy tôi mang nếu tôi có tội.
5/. Dầu sao tôi cũng rất cảm kích tấm lòng của quý vị nhưng phải nhớ rằng : công cho hơn của đem cho, đem cho thế nào mà người nhận cảm thấy yên lòng, vui vẻ. Thử nghĩ rằng Đức Tăng Thống là biểu tượng của Phật Giáo, việc dâng cúng lên Ngài không phải như cho Lê Công Cầu hay Nguyễn Tất Trực… Vậy mà quý vị viết :
1/. Thích Quảng Độ, 100 Mỹ kim
2/. Thích Nguyên Lý, 100 Mỹ kim
(…) Lê Công Cầu, 100 Mỹ kim, v.v…
Tôi cảm thấy đau lòng vì quý vị xem Ngài với chúng tôi như cá mè một lứa, đau lòng lắm, nếu không nói là xúc phạm Ngài.
Vài lời tâm huyết, xin kính cám ơn chư vị.
Nguyên Chánh Lê Công Cầu
No comments:
Post a Comment