Huệ Lộc - Trả Lời Câu Hỏi - Lộ Trình Bát Chánh Đạo ( phần 1 of 3)
Dàn bài:
I. Lời dẫn
II . Tứ Diệu Đế
A. Khổ Đế
1. Tam Khổ
2. Bát Khổ
3. Bát Nạn
B. Tập Đế...
1. Thiện/ác
2. Nghiệp báo, quyết định / không quyết định
3. Điểm giống nhau của tất cả nghiệp
4. Nghiệp cần có phiền não mới chiêu cảm quả báo
5. Nghiệp lực trong một sát na đã trở thành quá khứ nhưng nó không mất đi mà vẫn tồn tại
6. Cái gì đã qua hoặc diệt trong một sát na, điều đó không hề có nghĩa là không có gì
7. 4 Phiền não căn bản
8. Sự sinh tử không có điểm bắt đầu
C. Diệt Đế
1. Diệt Đế chính là diệt sự mê hoặc. Tận diệt phiền não bằng cách nào
2. Thuyết Nhân Duyên là Trung Đạo
D. Đạo Đế
37 Phẩm Trợ Đạo
1. Tứ niệm xứ
2. Tứ chánh cần
3. Tứ Thần túc
4. Ngũ căn
5. Ngũ lực
6. Thất giác chi
7. Bát Chánh Đạo trong nghĩa hẹp
III Bát Chánh Đạo trong nghĩa Đại Thừa
1. Chánh Kiến
2. Chánh Niệm
3. Chánh Ngử
4. Chánh Nghiệp
5. Chánh Mạng
6. Chánh Phương Tiện (Chánh Tiến)
7. Chánh Tu Duy
8. Chánh Thiền Định
IV. Ba câu hỏi quan trọng của Tịnh Vô Cấu Bửu Nguyệt Quang Vương Bồ Tát (Đại Bảo Tích 2, page 384)
IV Kết luận
***
I. Lời Dẫn
Bát Chánh Đạo (Bát Thánh Đạo) là tám pháp tu giải thoát thuộc về Đạo Đế (Đạo Thánh Đế). Sao gọi là Đạo Thánh Đế? Vì nhờ thực hành pháp tu nầy mà hành giả thấy rõ được những điều mê hoặc đã che lấp tâm trí của họ từ vô thỉ, và làm cho có khả năng cắt đứt mọi phiền não nầy. Tâm lý tự do khỏi những phiền não đó gọi là Chứng và Đắc. Vì bản chất của mọi pháp là giả hợp hay nói cách khác là Không, nên sự thấu rõ thể tướng chơn thật của pháp giới cũng sai biệt do đó cấp chứng ngộ cũng khác nhau. Thí dụ như trong Tứ Thánh pháp giới có bốn quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na hàm, và A La Hán; còn trong Bồ tát pháp giới thì lại có Tam Hiền và Thập Thánh.
Mục đích Đạo Thánh Đế là hành động hoàn tất sự giải thoát khỏi vô minh phiền não, đưa hành giả về Niết Bàn tịch tịnh như đức Phật đã viên chứng. Bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo trong Thanh Văn Đạo, các vị hữu học và vô học lần lượt đạt được hạnh phúc xuất thế tức cảnh Hoá Thành Dụ Niết Bàn, mọi vọng tưởng vắng lặng, mọi phiền não không khởi vì các hột giống phiền não đã cháy rụi từ các ngọn lửa Không, Vô Tướng, và Vô Tác. Bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo trong Bồ Tát Đạo, các vị Sơ Phát Tâm, Trung Phát Tâm, và Đại Phát Tâm Bồ Tát lần lượt đi vào Bồ Tát Vị, phát Bồ Đề tâm, ngộ nhập tri kiến Phật tánh tức Pháp Giới Tánh, chứng đắc Vô Trụ Xứ Niết Bàn, có trí tuệ và phương tiện thiện xảo, ra vào sanh tử như đi vào chốn chợ búa, độ chúng sanh không mệt mỏi, nhàm chán. Vì thế mà Bát Chánh Đạo được xem là Phật Đạo.
Pháp tu Bát Chánh Đạo không thể tự bắt đầu trước phần Kiến Đạo vì đây là phần Tu Đạo, ngoài ra còn có Bát Tà Đạo là các loại chấp ngã từ các chủ trương Thường Kiến và Đoạn Kiến do ngoại đạo xướng lập. Do đó muốn tu Bát Chánh Đạo có kết quả thì phải tư duy sâu xa, và thông suốt ba Đế trước là Khổ Đế, Tập Đế, và Diệt Đế sau đó mới bắt đầu tu Đạo Đế, và trong Đạo Đế đã có Bát Chánh Đạo. Ngộ nhập Khổ, Tập, Diệt Đạo gọi là Kiến Đạo. Tuân hành tu học nghiêm túc Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo gọi là Tu Đạo. Chứng ngộ được Khổ, Tập, Diệt, Đạo hay không là do mình tự biết; còn phiền não phát khởi hay không, như uống nước thì tự biết nóng hay lạnh. Ngoài Phật ra, không ai có có thể tự cho mình chứng quả (bốn thánh quả hay Bồ Tát địa) hay nhờ kẻ chứng nhận dùm, vì trong kinh Kim Cang Phật có nói với ông Tu Bồ Đề rằng:
- Tu Bồ Đề ! Ý ông thế nào? Tu Đà Hoàn có thể nghĩ rằng: Ta được quả Tu Đà Hoàn chăng?
Ông Tu Bồ Đề thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Không. Bởi vì sao? Vì Tu đà Hoàn, gọi là Nhập Lưu mà không có chỗ nhập, không nhập vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ấy gọi là Tu Đà Hoàn.
- Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Tư Đà Hàm có thể nghĩ rằng: Ta được quả Tư Đà hàm chăng?
Ông Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn! Không. Bởi vì sao? Vì Tư Đà Hàm gọi là Nhứt Vãng Lai (trở lại cõi Dục một lần chót), mà thật không có vãng lai, ấy gọi là Tư Đà hàm.
- Tu Bồ Đề ! Ý ông thế nào? A Na Hàm có thể nghĩ rằng: Ta được quả A Na Hàm chăng?
Ông Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn! Không. Bởi vì sao? Vì A Na Hàm gọi là Bất Lai (không trở lại cõi Dục vĩnh viễn) mà thật không có bất lai, ấy gọi là A Na Hàm.
- Tu Bồ Đề ! Ý ông thế nào? A La Hán có nghĩ rằng : Ta được đạo A La Hán chăng?
Ông Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn! Không. Bởi vì sao? Vì thật không có pháp gì gọi là đạo A La Hán. Bạch Thế Tôn! Nếu A La Hán còn nghĩ rằng: Ta được đạo A La Hán, tức đã chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giã. Bạch Thế Tôn! Phật bảo con được phép định Vô Tranh tam muội (không tranh cãi với bất cứ một ai, và làm vừa lòng họ) là bậc đệ nhất trong loài người, là A La Hán ly dục thứ nhứt. Bạch Thế Tôn! Nhưng con không nghĩ rằng: "Con là A La hán ly dục. Bạch Thế Tôn! Nếu con nghĩ rằng con được đạo A La hán chắc Thế Tôn không nói Tu Bồ Đề ưa hạnh A Lan Na (tịch tịnh). Vì không có hạnh nào là A Lan Na, nên mới gọi Tu Bồ Đề là ưa hạnh A Lan Na."
II . Tứ Diệu Đế
Tứ Diệu Đế còn gọi là Tứ Đế nghĩa là bốn chơn lý chắc thật. Lý do gọi là chắc thật là vì thời Đức Phật, tất cả mọi người kễ cả các trí thức và ngoại đạo đều đã nghiên cứu về bốn điều Khổ, Tập, Diệt, Đạo nhưng không một ai quả quyết có khổ thật, có tập thật, có diệt khổ thật, và có con đường rốt ráo thực hành để diệt khổ. Đối với Khổ, có khi họ thấy có khi họ không thấy. Dù có thấy hay không thấy, nhưng tất cả đều không đưa ra được phương cách nào diệt khổ một cách rốt ráo. Thí dụ đối với sanh, lão, bệnh, tử thì đồng thấy biết, nhưng hỏi làm cách nào để trừ diệt khổ về sanh, lão, bệnh, tử thì mỗi người nói một cách khác nhau mà không có cách nào là ổn thoả hết. Đối với ngũ dục thì lại cho là hạnh phúc. mà không biết đó là mầm khổ, do đó càng mơ hồ về khổ, cũng là mơ hồ về Khổ Đế. Cũng như vậy, đối với Tập là tập hợp, căn gốc của sự khổ, họ cũng nhìn thấy mù mờ những nguyên nhân. Thí dụ như sự nghèo khổ bần, thay vì giải thích do từ tấm lòng bỏn xẻn và ích kỷ keo kiệt thì họ lại quy về do số phần. Sự ngu tối hay tật nguyền, những bất hạnh đã xảy ra cho mỗi cá nhân, thì họ lại quy vào cho số mạng, mặc dù họ chưa bao giờ biết rõ cái gì là số mạng, hay cũng không bao giờ biết được "Thượng Đế" có mặt mũi như thế nào. Hoặc có người cho là "luật tự nhiên" không tuỳ thuộc nhân quả..., dù có giải thích thế nào chăng nữa, lý thuyết mà họ nương vào luôn luôn có những mâu thuẫn trầm trọng mà không thể giải quyết được. Về vấn đề Diệt khổ, các trí thức và chín mươi sáu phái ngoại đạo, trong thời đức Phật, cũng nhận định rằng muốn được an vui hạnh phúc thì cần phải diệt khổ, tuy nhiên họ lại không tin có thể diệt được khổ, như một loại ngoại đạo tin rằng người chết vì bị chém đầu thì những kiếp sau nầy, đầu cũng phải bị chém, hoặc con mèo thì kiếp nào cũng là mèo, con vua chúa thì kiếp nào cũng là vua chúa... nghĩa là không thể đổi thay cái khổ hay số kiếp, họ mong muốn hết khổ, nhưng không biết nơi đâu là cái gốc khổ diệt. Cuối cùng vì không có nhận thức chắc chắn về Khổ, Tập, và Diệt nên không có một tri thức hay một ngoại giáo đương thời nào đưa ra con đường rốt ráo diệt khổ giải thoát. Trong Kinh A Nan Hỏi Phật Sự Cát Hung, Đức Phật bảo ông A Nan:" Nếu khi bệnh tật, tự mình không tin điều nhân quả lại cầu hỏi thầy bói thầy bùa làm sớ văn cúng tấu để mong giải trừ. Thờ tà thần thì thiện thần xa lánh không còn hộ trì, do đây mà yêu tinh quỷ mị ngày một đến thêm nhiều, ác quỷ tụ tập nơi cửa khiến cho suy kiệt tổn hao, sở cầu không được tốt, hoặc mới vừa từ trong ác đạo ra được làm người, tuy đời nay là người, nhưng vẫn là người còn mang nặng tập khí tội lỗi. Hạng người như thế không phải đích thực là Phật tử. "
Đức Phật có nói với chúng đệ tử rằng ngoại đạo có Khổ, Tập, Diệt nhưng không có Đạo. Xét kỷ thì thấy mặc dù ngoại đạo có Khổ, Tập, và Diệt nhưng cũng chỉ là loại nửa chừng. Điều đó trong kinh Đại Niết Bàn thường nói Tứ Đảo là sự lầm lẫn của chúng sanh:
Vô thường thì được chúng sanh cho là Thường.
Chú thích 1: Của cải, tài sản, thân mạng,.. cho đến linh hồn không thường cho là thường
Vô Lạc (không vui) thì chúng sanh cho là vui
Chú thích 2: Như ngũ dục, tam độc: tham, sân, si... không vui cho là vui
Vô Ngã (ngũ uẩn không phải là Ngã) thì chúng sanh cho là Ngã
Chú thích 3: Danh xưng, tên tuổi, tứ đại, thân mạng, ngũ uẩn không phải là ngã thì bảo đó là Ngã.
Bất Tịnh (không sạch) thì chúng sanh cho là Tịnh (sạch sẽ)
Chú thích 4: Lấy cái bên ngoài giả dối ngôn ngữ, hình tướng, mùi thơm che đậy cái bẩn thỉu xấu xa hèn mọn trong tâm hồn, cho là sạch sẽ.
Vì những lý do đó mà Đức Phật tuyên bố Tứ Đế là bốn chân lý chắc thật và giải thoát cái khổ hằng muôn đời kiếp của chúng sanh. Chẳng những vậy Tứ Đế còn mang chúng sanh trở về tự tánh Niết Bàn tịch tĩnh xưa nay chưa từng mất ở mỗi chúng sanh, qua con đường Đạo Đế. Đức Phật tìm ra Tứ Đế, điều rất quan trọng, vì nó có khả năng đưa chúng sanh hành giả về tận chốn Niết Bàn an dưỡng. Trong sự tu học Phật Pháp, Tứ Đế là căn bản quán pháp của mọi hành giả trong tất cả mọi Thừa, vì nếu sự tu tập không dựa trên Tứ Đế thì hành môn trở thành Nhân thiên thừa, mọi pháp tu trở thành tập phước hữu lậu trong hai cảnh nhân thiên. Thí dụ như thiền định thì rơi vào phàm phu thiền, còn bố thí thì rơi vào ngã tướng.... Do đó kết quả là không giải thoát. Vậy, một cách tiệm tiến, muốn có kết quả bảo đảm cho sự tu học giải thoát, mọi hành giả không thể không tư duy và chứng đắc Khổ, Tập, Diệt đế trước khi bắt đầu hạ thủ công phu trong Đạo Đế.
Có một điều nên thận trọng là có nhiều người chỉ thích ngộ nhanh tu tắt, thường dựa vào chử nghĩa văn cú luận bàn, tự cho là đốn ngộ. Điều nầy rất sai lầm, vì thật ra không có pháp để đốn ngộ hay tiệm ngộ, mà chỉ có tự tâm thấy chổ bị che dấu si lầm do phiền não kiến tư mà từ bỏ chúng. Do đó ngộ không chổ ngộ, chứng không chổ chứng, tuyệt nhiên không thấy có cái Ta (người) chứng ngộ. Trong quyển Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, Ngài Khuê Phong có nói: " Ngộ, tu đốn, tu tiệm in tuồng trái nhau mà phù hợp. Nghĩa là
các kinh luận và chư thiền môn, hoặc nói :" Trước nhơn tiệm tu thành công bổng nhiên đốn ngộ", hoặc nói:" Trước phải đốn ngộ mới có thể tiệm tu". Hoặc nói :" Do đốn tu nên tiệm ngộ", hoặc nói :" Ngộ tu đều tiệm". Hoặc nói:" đều đốn". Hoặc nói:"Pháp không có đốn tiệm, đốn tiệm tại căn cơ". Như những thuyết ở trên, mổi thuyết đều có ý nghĩa."
Vậy phải hiểu tiệm và đốn như thế nào?
1. Tiệm tu đốn ngộ: Tu tập dần dần rồi hiểu tất cả. Như lau chùi một căn phòng, bắt đầu từ một nơi, rồi lần lần lau sạch sẽ trọn căn phòng. Như giữ giới, ban đầu giữ một giới, năm giới, hoặc tám giới, hay mười giới, sau lần lần hiểu được Tâm không, giữ được vô lượng giới.
2. Đốn ngộ tiệm tu: Nghe câu đạo lý liền biết chỗ sai lầm, không theo giác trần, không nương vọng tưởng, nhưng phải tu từ từ để phá hết mọi phiền não loạn động. Như Ngài Mã Tổ nói: "Từ ngày ngộ đạo đến nay hơn ba mươi năm, ta chỉ có việc giữ gìn cái tâm không rơi vào vọng tưởng". Trong Kinh Mật Tạng Phật Giáo Việt Nam, Phẩm Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lồ Quân Trà Lợi Diễm Mang Xí Thạnh Phật Đảnh Kinh, số 965 có ghi lại khi đức Phật Đại Nhật Như Lai truyền dạy ấn pháp Đại Cam Lồ Quân Trà Lợi cho vô lượng chư Phật, Bồ Tát, và chúng sanh, có tám vị đại Bồ Tát khi nghe Phật giảng xong, trong phút chốc tức được như Phật. Thời tám vị Đại Bồ Tát nầy tán rải hương hoa tán thán Phật xong, muốn trở về bổn quốc. Phật Tỳ Lô kêu lại bảo rằng: "Các ông dầu đã thành Phật thân, nhưng chưa báo ân Phật." Thời tám đại Bồ Tát bạch Phật rằng:" Làm sao báo ân Phật?" Phật dạy: " Đã được thành Phật rồi, cần phải rộng độ hữu tình, không được trụ Niết Bàn tự thọ tịnh lạc." Thời tám vị Đại Bồ Tát nghe Phật nói như vậy, tức biến bỏ thân Phật lại thành Bồ Tát, lễ nơi chân Phật. Phật bảo ông Kim Cang Thủ Bồ Tát:" Các ông nên đem pháp nầy rộng độ hữu tình, mau được thành Phật." Khi đó Bồ Tát Kim Cang Thủ bạch rằng: "Bạch Thế Tôn, nếu như chúng con không đem pháp nầy độ khắp hữu tình khiến đều thành Phật, con thề không thành chánh giác."
3. Ngộ tu đều tiệm, hoặc ngộ tu đều đốn: Đốn là nói về lý, tiệm là nói về sự. Trong đốn có tiệm; trong tiệm có đốn. Đốn tiệm nương nhau làm cho hành giả nắm giữ được chánh pháp tu tập. Ngộ tu đều đốn: Như người chưa tuy thấy thành phố, nhưng có bản đồ biết hướng đi. Tuy đi chưa tới nhưng biết mình sẽ tới. Ngộ tu đều tiệm: Từ từ mà đi, cần có thời gian thì việc mới xong. Tuy đã biết đường đi tới thành phố rồi, nhưng phải đi vượt qua hết các nẽo đường rồi mới tới nơi muốn tới.
Do đó trong kinh thường nói:" Không có pháp đốn hay tiệm, chỉ có căn tánh nhanh lẹ hay chậm lụt". Ngài Khuê Phong còn nói thêm: "Tánh không phải dễ ngộ, vì phần nhiều đều chấp tướng. Cho nên, muốn hiểu tánh trước phải phá hết chấp. Phương tiện phá chấp cần phải dẹp hết phàm thánh công phu." Nơi đây Ngài dạy bỏ hết phàm thánh công phu, tức là vô tướng chấp, là bước đầu tiên cần phải biết, nếu hành giả muốn ngộ được Phật Pháp. Phàm công phu là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến. Còn Thánh công phu là công phu Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.
Ngài nói: "Giới tức không phạm không tu, thiền tức không định không loạn, ba mươi hai tướng đều là hoa đốm trong hư không, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo đều là huyễn hoá ...cốt ý khiến tâm không còn chấp trước (Ngã tướng) mới có thể tu thiền (trở về thể tánh chơn thật)". Từ nghiên cứu Phật lý đến tu đạo, biết rõ Tiệm Đốn vốn không khác nhau, cần phải gia công chuyên cần khắc phục phiền não ma chướng ắt có ngày ngộ nhập đại đạo (vô tướng).
A. Khổ Đế
Chỉ cho sự thật về các khổ hữu lậu (sanh già bịnh chết...) trong ba cõi (dục giới, sắc giới, và vô sắc giới) gồm có tam khổ, bát khổ. Tuy nhiên trong cuộc sống, đối với phàm phu thì cũng có những cái rất hưởng vui như ngũ dục là sắc đẹp, âm thanh, mùi hương, ăn uống, và xúc chạm, nhưng vì xét kỹ lại thì cái vui tuy có nhưng ít, còn khổ sau đó lại nhiều hơn, nên ngũ dục cũng thuộc vào Khổ Đế, nghĩa là cái khổ. Muốn chứng được Khổ đế phải quán tướng khổ như thật chính khổ, không gì khác hơn cuối cùng chỉ là khổ. Khi thấy tướng khổ không còn bị che dấu trong các tướng vi tế, thì gọi là chứng ngộ Khổ Đế (tuy nhiên đây vẫn còn giới hạn trong Tiểu Thừa vì còn thấy Pháp có).
1. Tam khổ
a. Khổ khổ: Là cái khổ dồn lại, là thuận theo pháp khổ thọ, là tự tướng của khổ. Nghĩa là cái khổ xưa nay đến giờ bao giờ cũng nối tiếp nhau, làm cho khổ nhiều hơn giống như người già còn thêm khó khăn bịnh hoạn, kẻ nghèo mà nợ nần càng chất chồng thêm...không ai trên đời nầy tránh được.
b. Hoại khổ: Là tự tướng của hoại diệt. Không một ai hay một vật gì thoát khỏi quá trình sanh, trụ, diệt. Có rồi lại mất, sanh rồi tử, hợp rồi tan, yêu mến rồi chia lìa... không một ai trên đời nầy tránh được Hoại khổ.
c. Hành khổ: Là cái khổ liên hệ đến tất cả mọi hành vi tư tưởng của thân và tâm của một cá nhân. Hành khổ thâu tóm hết tất cả cái khổ của năm uẩn: khổ về sắc ấm, khổ về thọ ấm, khổ về tưởng ấm, khổ về hành nghiệp, và khổ về thức biến. Đây là toàn bộ đời sống khổ trong hai phương diện tâm linh và vật chất của nhân loại.
2. Bát Khổ.
Tam khổ là ba nguyên lý lớn về khổ. Bát khổ là tám điều đại khổ.
2.1. Sanh khổ: Có 5 loại sanh khổ.
a. Thọ thai : Lúc thần thức gá vào thai mẹ, thai nhi ở trong bụng chật chội bất tịnh.
b. Chủng tử: Thai nhi thở theo hơi mẹ nên không được tự tại.
c. Tăng trưởng: Thai nhi trong bụng mẹ 10 tháng, bên trong nóng bức, thân hình từ từ tăng trưởng, dưới ruột non trên ruột già như trong tù.
d. Xuất thai: Lúc mới sanh ra thân thể yếu ớt dễ nhiễm trùng bệnh tật do thời tiết khí hậu chung quanh. Da thịt non mềm như bị châm chít.
e. Chủng loại: Do gia thế, dòng giống, và phước đức ảnh hưởng nên có giàu sang, nghèo hèn, đẹp xấu, nguyên vẹn đầy đủ hay tật nguyền bệnh hoạn không thể biết trước được.
2.2. Lão khổ: Có hai loại:
a. Tăng trưởng: Từ thiếu niên đến tráng niên. Từ tráng niên đến già suy, khí lực yếu dần. Đi đứng nằm ngồi, mọi sinh hoạt trong đời sống khó khăn không an ổn.
b. Hoại diệt: Thời khoẻ mạnh đã qua, sự suy yếu đến, tinh thần suy giảm, mạng sống ngày càng rút ngắn, dần đi đến hư hoại.
2.3. Bệnh khổ: Có hai loại:
a. Thân bệnh: Bốn đại không điều hoà thì bệnh phải sanh. Do từ môi trường chung quanh, sinh hoạt, ăn uống, thời tiết... mà thân mang bệnh. Có ai dám tự cho mình là vô bệnh?
b. Tâm bệnh: Trong lòng ôm ấp những khổ não bi ai. Thí dụ như có bịnh chữa mãi không hết; đấu tranh thua người, bị người chưởi mắng, kiện tụng, quan quyền hăm doạ bắt bớ, ganh ghét, tham sân, dâm dục không diệt được.... cho nên bị thảm khổ bi ai.
2.4. Tử khổ: Có hai loại:
a. Tử vì nội duyên: Bịnh nặng nên phải chết. Vì hi sinh nên phải chết, vì khổ nên muốn chết...
b. Tử vì ngoại duyên: Gặp ác duyên như có kẻ hại hoặc nạn tai do người như xe đụng nhằm hay do thiên tai tạo ra như động đất, sóng thần, lửa cháy, té sông, lọt biển...
2.5. Ái biệt ly khổ: Người mình yêu thương lại phải xa lìa, không được ở chung gần gũi như người yêu, vợ chồng, con cái...
2.6. Oán tằng hội khổ: Với người oán thù, không thích thấy mặt thì lại phải gần gũi ở chung.
2.7. Cầu bất đắc khổ: Những gì ở thế gian, tâm mong muốn nhưng không được toại nguyện. Thí dụ như học sinh đi thi muốn đậu mà không được đậu, nông dân trồng trọt muốn được mùa mà lại thất mùa...
2.8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, còn bốn ấm kia thuộc về tâm. Đây là sự khổ hưng thạnh của thân tâm do sanh, lão, bệnh, tử nhóm họp. Hơn nữa, ấm có nghĩa là che khuất, năm ấm này che khuất bản lai diện mục, tức chơn tánh. Rồi nó khiến người mê hoặc, điên đảo. Mê cảnh chạy theo trần lao mà sanh khởi tham, sân, si gây ra bao nhiêu tội ác, giống như cây khô gặp lửa, chắc chắn cháy rụi thành tro.
3. Bát nạn:
3.1. Sinh vào địa ngục
3.2. Sinh vào ngạ quỷ
3.3. Sinh vào súc sanh
3.4. Sinh vào Trường Thọ Thiên là các cảnh trời Vô sắc gồm có: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ là những cảnh trời có đời sống rất lâu từ một vạn đại kiếp đến tám vạn đại kiếp nhưng tất cả các đại tiên nầy rất khó có cơ duyên gặp Phật Pháp, sau khi hưởng hết phước báo thì chịu tướng ngũ suy rơi vào cõi thấp.
3.5. Sinh không nhằm thời gian chánh pháp, tượng pháp, hay mạt pháp nên cũng không có cơ duyên gặp Phật pháp.
3.6. Lại sinh trong những vùng biên địa không có Phật pháp lưu truyền.
3.7. Lại sinh ra bị tật nguyền như đui, điếc, câm, ngọng... không phân biệt được sự, lý tuy ở nơi Phật pháp mà không có duyên nghe được tiếng Pháp lọt vào tâm.
3.8. Sinh ra trong gia đình tà kiến, bị hấp thu tà kiến nên điên đảo vọng tưởng.
Tám điều trên đây gọi là bát nạn tiếp phần vào khổ tập tạo ra nhiều chướng ngại của việc học Phật. Tám loại chúng sanh nầy không có cơ tu học Phật Pháp nên luôn rơi vào luân hồi sanh tử triền miên. Như vậy nếu chúng ta không rơi vào tám nạn nầy, thật là điều đáng vui mừng biết bao!
B. Tập Đế
Còn gọi là Khổ tập Thánh Đế hay Khổ Tập Đế. Đây là lý căn bản chơn thật nói về nguyên nhân của các khổ. Tập nghĩa là gom nhóm. Nếu tâm tương ưng với kết nghiệp thì trong vị lai nhất định sẽ gom nhóm các khổ, gọi là Tập Đế nghĩa là chắc thật, không sai lệch. Nguồn gốc của các khổ là khát ái tức là sự mong muốn chiếm đoạt sở hữu, vì do tính liên tục khát ái mà hình thành đời sau và thân sau. Trọng tâm của khát ái là ngã kiến hư vọng được sanh khởi từ vô minh. Vậy nếu có khát ái thì sẽ có sanh tử luân hồi. Muốn dứt trừ sanh tử luân hồi phải dùng trí tuệ chiếu soi phá bỏ vô minh, thấy được thật tướng của vọng tưởng , tức là cảnh Niết Bàn tịch tĩnh vắng lặng xưa nay. Để minh tường rõ ràng về Tập Đế, tưởng cần phải xét thêm nhiều chi tiết như thiện ác, vô minh, phiền não, nghiệp báo ... tức sẽ biết rõ được nguyên nhân của từng cái nghiệp báo từ đâu mà ra.
1. Phân biệt Thiện và Ác
Thiện và ác thuộc về chánh kiến. Thiện ác có tầm mức rất quan trọng trong Tập Đế, chính nó là động cơ tác động thiện nhân sanh thiện quả và ác nhân sanh ác quả. Trong Chánh kiến có sự xác tín có thiện, có ác. Phân biệt thiện ác là một tri kiến tối quan trọng trong cuộc sống mà ít ai để ý đến, vì nếu không rõ ràng tiêu chuẩn thiện ác, người ta sẽ lầm lẫn việc làm thiện thì cho là ác, mà việc làm ác thì cho là thiện nên nghiệp báo xảy ra mà không hiểu vì sao. Do đó mới có người nói rằng làm lành lãnh ác, làm ác lãnh phước. Việc hành thiện không nên quan sát cạn cợt theo hình thức bên ngoài. Có kẻ bên ngoài xem như là làm lành nhưng thật không phải lành; có người xem như làm ác, song chính là thiện. Những việc gọi là lành, nếu gia tâm xét kỹ, sẽ thấy có thật giả, có ngay vại, có âm dương, có phải quấy, có chánh có tà, có ngay thẳng có gian dối, có lớn nhỏ, có khó dễ. Nếu làm lành mà không thấu đạt lý nầy, nhiều khi tự gọi mình hành thiện, song không ngờ đó chính là tạo ác nghiệp, chỉ khổ công nhọc trí, không mang lại lợi ích gì.
Trong kinh Vị Tằng Hữu, một hôm vua Ba Tư Nặc bạch với Phật rằng: "Theo như lời Phật đã nói thì mười phương các vị Hiền Thánh rõ thấu nhân duyên quả báo của tất cả chúng sanh. Vậy thì phụ vương con trước kia tu trì giới cấm của ngoại đạo, không uống rượu, không ăn hành tỏi, ngũ vị tân; kính thờ Phạm Thiên và thờ mặt trời mặt trăng, thuỷ , hoả , thường làm việc bố thí để cầu sanh về cõi Trời Phạm Thiên. Mỗi năm thường dùng (giết) một ngàn con bò sữa cúng dường cho các thầy Bà La Môn, kể bốn mươi năm có bốn vạn con bò. Thỉnh các thầy Bà La Môn ăn sữa tô lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ mọi thứ, công đức như thế sẽ sanh về cõi Trời nào? Cúi xin Phật dủi lòng thương xót dạy bảo, khiến cho những người tu hành ai cũng được nghe được biết."
Phật bảo Vua rằng: "Quả báo của Tiên Vương nay ở trong địa ngục. Sở dĩ vì sao? Vì rằng Tiên Vương sanh ra không gặp thiện thời, không gặp thiện hữu, và không gặp thiện phương tiện. Tuy làm các việc phước đức (cúng dường) mà không khỏi tội (sát sanh). Như phước đức bố thí kia không mất đi đâu, chừng nào tội hết mới đặng hưởng phước."
Chẳng những người thế gian thường lộn lạo giữa thiện và ác mà hàng ngoại đạo cũng không xác nhận được rõ ràng tiêu chuẩn thiện và ác, cho nên họ vẫn phê phán chân lý một cách sai lầm. Như khi xưa các học giả theo phái Hoài Nghi Luận bên Ấn Độ quan niệm rằng: thiện ác không có tiêu chuẩn nhất định, chẳng qua do tập quán người đời cho là thiện thì nó thành thiện, cho là ác thì nó thành ác thế thôi. Chủ nghĩa Duy Thần và Duy Vật cũng quan niệm tương tự như vậy, nhưng có điều khác là chủ nghĩa Duy Thần lại quan niệm thiện ác là do đấng Sáng tạo phán quyết, làm theo lời đấng Sáng tạo là thiện còn làm ngược lại lời đấng Sáng tạo là ác. Bởi hiểu không đúng nghĩa lý thiện ác, nên hai hạng người trên tự mình đã đi lạc vào con đường tà kiến, còn gây trở ngại cho sự tu tiến của những người đang hướng về chánh giáo Như Lai.
Thế nào là thiện và ác? Như thuở xưa, mấy Nho sinh đến hỏi Trung Phong đại sư rằng:
- Nhà Phật dạy điều thiện ác báo ứng như bóng theo hình, nhưng tại sao hiện thấy có những người làm lành mà con cháu không phát đạt, còn mấy người làm ác trái lại gia đình thêm hưng thịnh. Như thế thì nhân quả mà Phật nói có gì là xác đáng ư?
Ngài Trung Phong trả lời:
- Bởi phàm tình chưa sạch, chánh nhân chưa bày; người đời thường nhận lầm thiện ra ác, ác ra thiện; ít ai biết trách điều thị phi điên đảo của mình, duy cứ hờn (đổ thừa) việc báo ứng sai ngoa. Như thế làm sao định chắc rằng xác đáng hay không xác đáng?
Các Nho sinh nói:
- Thiện là thiện, ác là ác, làm sao có sự nhận lầm trái nhau được?
Đại sư liền bảo họ chỉ cho xem một ít việc gọi là thiện hoặc ác. Một vị Nho sinh nói:
- Đánh mắng người là ác, kính trọng người là thiện.
Ngài Trung Phong nói:
- Chưa hẳn như thế!
Người khác bảo:
- Tham của vọng cầu là ác; liêm khiết thủ thường là thiện.
Đại sư vẫn bảo:
- Cũng chưa hẳn như thế.
Các Nho sinh lần lượt nói hết những tướng trạng thiện ác, song Trung Phong Đại sư vẫn bảo chưa hẳn là đúng. Họ ngạc nhiên, cầu xin giải thích. Ngài dạy :
- Việc làm nào có ích lợi cho mình và người là thiện. Trái lại, nếu việc làm nào chỉ lợi mình tổn người, tuy kính trọng người cũng vẫn là ác. Thế nên làm lành mà đem sự lợi ích cho người là công, và công tức là chân. Còn duy cầu lợi riêng cho mình là tư, đã tư tức là giả. Lại việc lành tự đáy lòng phát ra là chân. Làm theo thói quen bên ngoài là giả. Không chấp tướng là chân, có chấp tướng là giả. Cứ theo mấy điểm ấy xét ra sẽ tự hiểu (thiện hay là ác).
Đúng như lời Trung Phong Đại sư giải thích về tiêu chuẩn thiện ác. Theo Phật giáo, Thiện là điều gì có lợi cho mình và người trong hiện tại, tương lai, và Ác thì cũng theo ý trên. Phân biện Thiện và Ác như thế không phải dựa trên hình thức mà dựa trên sự ích lợi lâu dài. Như chiều chuộng, ngọt ngào với người chưa chắc là thiện; la rầy, đánh đuổi kẻ khác cũng chưa chắc đã là ác.
Lại nữa, Thiện ngoài ý nghĩa lợi ích cho mình và người, còn là những gì trong sạch và tốt đẹp. Như việc ngoại tình của một đôi nam nữ, tuy nhiên hai bên đều có lợi, nhưng vẫn là điều ác vì không trong sạch, và làm cho kẻ thứ ba đau khổ. Thiện ác tuy chỉ là ý niệm tương đối, nhưng có khả năng làm cơ sở đầu tiên để nhân phẩm kẻ tu học tiến hoá vượt lên những nấc bậc cao hơn, cuối cùng trở về tánh đức như Phật là hoàn toàn giải thoát. Như việc thiện của hàng nhơn thiên là mười điều lành, nhưng còn nhiều phiền não và ngã chấp. Tiến lên là bậc Nhị thừa quán Tứ Đế, diệt được kiến tư phiền não, tuy không còn ngã chấp, nhưng không sanh trí huệ hiện tiền vì hãy còn thấy Pháp và ngại vô minh, nên bậc Bồ Tát còn cho đó là chưa toàn thiện. Hàng Bồ tát phá dần hết những trần sa và vô minh phiền não, nương theo trung đạo tu đến quả địa Như lai là chổ trọn lành. Như trên chẳng qua là thử bàn về nghĩa thiện theo chiều sâu để cho kẻ hậu học có khái niệm không dính chấp vào nghĩa thiện ác mà tạo ra định kiến chấp trước cho rằng thiện ác là điều cố định hay không phải là điều cố định. Mỗi một pháp thiện như một chặng đường phải đi qua; hết chặng nầy đến chặng khác, cuối cùng hành giả vượt qua tất cả những chặng đường tiến hoá thì vào biển trí Như lai. Mỗi một pháp ác như một chặng đường xấu không nên bước qua, nếu bước qua đủ số những chặng đường không thiện lành thì cuối cùng rơi vào biển khổ mênh mông. Làm điều thiện lành là nấc thang tiến hoá, như trong kinh Vị Tằng Hữu, Thiên Đế hỏi Hoà thượng Giả Can rằng: " Cái công đức Thập Thiện, quả báo ra làm sao? " Giả Can đáp rằng: " Ta từng nghe Thầy ta nói người tu pháp Thập thiện, cảm quả báo sanh lên cõi Trời Lục Dục có cung điện toàn bằng thất bảo, ngũ dục sẵn sàng, đủ trăm món ăn ngon và mạng sống lâu không lường; cha mẹ, vợ con cùng lục thân quyến thuộc, xinh đẹp sạch sẽ, hoan hỷ khoái lạc...Còn nếu như chư Thiên tu Pháp Thập thiện thọ phước cõi Trời hết nhưng cũng trở sanh lại cõi Trời có phước báu sấp bội..." Do đó mà biết tu Thập thiện là điều cần thiết của những ai muốn đi xa và đúng trên đường Phật Đạo.
2. Nghiệp báo và nghiệp báo quyết định / nghiệp báo không quyết định
2A. Nghiệp là gì ? Báo là gì?
Nghiệp là kết quả việc làm của thân, khẩu, và ý. Nghiệp được tạo ra do hành động cố ý do thân tác động, và khẩu trợ lực. Có khi chỉ có ý và thân thì đã tạo ra nghiệp rồi, như trường hợp người câm tạo nghiệp thì không cần có khẩu. Có khi chỉ cần có sự tác ý quá lớn thì cũng tạo nghiệp như lời nguyện lời thề. Nói tóm lại tác ý là tánh quyết định tạo ra nghiệp, còn thân và khẩu là trợ duyên làm cho nghiệp mau thành tựu. Khi nghiệp đã thành tựu thì không bao giờ mất, nó sẽ quay trở lại tìm người gây tạo bằng hình thức nầy hay hình thức khác. Báo chính là kết quả gây ra bởi nghiệp. Như tạo thiện nghiệp sẽ cảm nhận thọ lãnh được quả báo tốt. Làm việc bố thí, giúp đời, giữ giới thì thấy thân tâm sảng khoái thoải mái, đầu óc nhẹ nhàng tinh thần sung mãn, đi đâu cũng an vui, làm việc gì cũng tự tin và luôn có sự giúp đở, đời nầy hạnh phúc, đời sau cũng được hạnh phúc. Trái lại khi gieo trồng ác nghiệp như vu oan, trộm cướp, giết người sẽ cảm thọ hậu quả lo sợ bất an, tâm hồn dày vò, ray rức đau khổ, đời nầy đau khổ, đời sau còn đau khổ hơn vì chồng chất oán thù càng thêm nặng.
2B. Đặc tính của nghiệp
2B.1. Một nghiệp lực rất nhỏ bé có thể chuyển thành to lớn. Kinh Bồ Tát Giới có nói: "Chớ xem thường những lỗi nhỏ mà cho là không tội, giọt nước dầu nhỏ lần lần đầy cả lu lớn. Lúc tạo tội chừng trong giây phút, mà phải cả nghìn muôn năm chịu khổ nơi địa ngục. Một phen bị đạo lạc mất thân người, thì muôn đời khó được lại thân người." Đây là nói một thiện nghiệp hoặc ác nghiệp rất nhỏ như sát sinh một con cá nhỏ hay chế diễu người hiền hoặc buôn bán gian lận hay nói lời tráo trở, độc ác... nếu như cứ tạo tác ra mãi thì sẽ tích góp lại thành một nghiệp lực rất lớn. Thiện nghiệp cũng vậy. Tuy chỉ là làm việc thiện nhỏ bé như phóng sanh, bố thí kẻ nghèo, cung kính kẻ tu hành, lòng ngay dạ thẳng, chẳng mến tham những đồ vật vô nghĩa chẳng thuộc về mình... nhưng nếu cứ hoan hỉ tán thán các việc phước đức thiện lành đó, thì việc tiểu thiện cũng dần dần trở thành đại thiện. Vì vậy mà Phật dạy phép Tứ Chánh Cần trong phép tu Đạo đế là:
Mọi việc ác đã sanh thì chấm dứt
Mọi việc ác chưa sanh thì làm cho không sanh
Mọi việc thiện đã sanh thì tăng trưởng thêm
Mọi việc thiện chưa sanh thì làm cho nó sanh
Bốn Pháp Chánh Cần là phương pháp gạn đục, sạch hoá thân tâm một cách toàn hảo. Do từ sự quyết định tiêu chuẩn rõ ràng hai nẽo thiện ác mà các chúng đệ tử Phật có thể nương vào Tứ Chánh Cần để tách ra khỏi phiền não.
2B2. Dẩn Nghiệp và Mãn Nghiệp:
a. Dẫn nghiệp: Trong rất nhiều loại nghiệp, có một loại nghiệp có lực rất mạnh, nó dẫn dắt chúng ta cảm ứng khi đi đầu thai, gọi là Dẫn nghiệp. Đây là những định kiến hay tà kiến hoặc ác kiến, hoăc thói quen gây tạo có khuynh hướng chủ động quyết định mạnh hơn tư tưởng phân biệt đúng sai và ý chí của mỗi cá nhân, trước khi chết thì dẫn nghiệp nầy có tên riêng gọi là Cận tử nghiệp. Chính Cận tử nghiệp tự quyết định cho con đường tái sanh thân sau mà không cần có sự can thiệp của lý trí, vì đây là thời gian nghiệp dẫn chủ động hoàn toàn. Như hằng ngày hành nhân tức giận căm thù nặng nề thì trước khi chết, lòng căm hờn tức giận đó là cận tử nghiệp quyết định thích thú vào con đường lửa cháy chính là đường vào địa ngục mà chính hành nhân đó cũng không hay biết gì cả. Như trường hợp vua A Dục thường ngày là một Phật tử hộ pháp đắc lực, đóng góp khá nhiều công sức cho việc hoằng dương chánh pháp, tuy nhiên tâm sân hận chưa trừ bỏ, đến khi sắp chết, nằm trên giường bệnh, một cung nữ cầm quạt vô ý đụng một cánh quạt vào mặt vua. Vua A Dục giận lên rồi chết, liền khi ấy liền hoá sanh làm một con rắn bò trên nóc hoàng cung. Người anh của vua chứng quả A La Hán thấy biết nhà vua gặp nạn, nên vội vã trở về vương thành thu con rắn vào trong bình bát và chú nguyện. Con rắn kia chết mới sanh về cảnh thiên cung hưởng phước đức đã gây tạo. Lực Cận tử nghiệp quyết định cho thân sau, người tu hành phải nên cẩn trọng. Người đang tu hành trên đường tiến hoá do lực thiền định sâu cạn, quả đắc tương ứng gọi là Chánh Báo. Việc làm phước đức hiện ra hoàn cảnh tốt đẹp theo thân thì gọi là Y Báo. Như Chánh báo của Phật là quả vị Phật; chánh báo của những vị tu thiền phạm hạnh là ngôi vị Phạm thiên vương. Y Báo của Phật là cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh. Y báo của Phạm Thiên Vương là cung điện lộng lẫy nguy nga.
b. Mãn nghiệp: Dẫn nghiệp chuyên quyết định cảnh giới đầu thai. Có một loại nghiệp lực khác có khả năng quyết định tánh chất của thân tướng cũng như cảnh giới tương ưng với thân sanh ra. Như cùng thời sanh ra làm người nhưng khôn, ngu, đẹp, xấu, giàu, nghèo, lùn, cao, thông minh, chậm hiểu, đen, trắng...đều do sự ảnh hưởng của Mãn Nghiệp. Mãn nghiệp do nơi hành vi thiện ác hằng ngày gây tạo. Như bố thí được giàu có, phóng sanh được sống lâu, nhân từ thì tướng đẹp, sân hận thì tướng xấu. Người tu hành tạo nhiều công đức cho chúng sanh thì Mãn nghiệp của họ gọi là Y Báo, nghĩa là thân tướng và cung điện tốt đẹp theo thân sanh, tức là phước huệ trang nghiêm.
c. Khi nào nhận báo: Có nhiều người không hiểu về nghiệp báo nói rằng tại sao trong thế gian có nhiều người làm lành mà chết sớm, còn kẻ làm ác nhiều mà lại sống lâu. Hoặc nói có kẻ cướp giựt, lường gạt thì giàu có, còn người buôn bán thật thà thì nghèo nàn. Đó là vì chưa hiểu quá trình lưu chuyển của dòng nghiệp lực. Xét về thời gian từ khi tạo nghiệp cho đến khi chịu báo chia thành ba thời nghiệp, gọi là nhân quả thông suốt ba thời:
1. Hiện báo nghiệp: Tạo nghiệp trong kiếp nầy, trả nghiệp ngay trong kiếp nầy.
2. Sinh báo nghiệp: Tạo nghiệp trong kiếp nầy, sau khi chết mới trả báo trong kiếp sau.
3. Hậu báo nghiệp: Tạo nghiệp trong kiếp nầy, cách một hai đời hoặc trăm ngàn đời sau mới lãnh quả báo.
Đời nầy làm ác mà luôn hạnh phúc sung sướng là do quả ác hiện tại chưa chín mùi, và việc thiện lành trong quá khứ còn dư phước. Cũng như đang trong thời gian vay nợ thì chưa có gì là đau khổ, nhưng thời kỳ trả nợ đã đến, khi người chủ đến đòi nợ thì bấy giờ mới thấy có khổ đau.
Đời nầy làm thiện mà luôn gặp khổ là vì việc thiện làm còn mới hoặc quá nhỏ chưa đủ sức thắng nghiệp ác trong quá khứ, nên ác quả vẫn còn tồn tại. Vì thế kẻ tu hành phải chọn pháp môn tu để trước tiên có nhiều phước đức trang trải cho ác nghiệp, sau đó mới yên tâm tiếp tục tu hành. Trong Phật pháp, pháp tu nào cũng mang đến phước đức vô lượng, tuy nhiên phải theo đúng phương pháp tu hành thì mới đạt được kết quả như ý, không nên sáng chạy tây rồi tối chạy đông, tâm trí phân vân không an ổn thì không thể hạ quyết tâm tu đạo được. Thiền định, Niệm Phật, hay trì chú là phương tiện thù thắng chuyển nghiệp có thể thành tựu phước đức và trí tuệ nhanh chóng. Như trong Luận Đại Thừa Khởi Tín, Ngài Mã Minh nói: " Ai ngồi quán mãi pháp Không Đại thừa sẽ đắc được công đức vô lượng". Kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật nói: " Niệm danh hiệu Phật A Di Đà sẽ được đa phước đức, đa thiện căn" vì phần đông chúng sanh tu hành tối đa chỉ đạt thiểu phước đức, thiểu thiện căn nên không thể vãng sinh về cảnh giới thù thắng Tịnh Độ của Phật A Di Đà, nên đức Phật Thích Ca mới khuyên chúng sanh nên niệm hồng danh Phật A Di Đà thì công đức mới phát sanh vô lượng đầy đủ để vãng sanh. Năng lực của thần chú cũng bất khả tư nghị, cảnh giới thân chứng và cảm ứng của thần chú siêu việt khôn lường, đức Phật có nói công đức kẻ thọ trì Lục Tự Đại Minh dù Ngài có nói suốt kiếp cũng không hết. Do đó mà biết tuy Nghiệp lực có sức mạnh bất khả tư nghị, nhưng Phật pháp cũng giải thoát bất khả tư nghị. Chỉ cần hạ quyết tâm bỏ ác tùng thiện, nhất quyết quay đầu tìm về cửa Phật dưỡng tánh tu tâm thì mọi khổ đau và nghiệp chướng trước sau gì cũng tiêu trừ vắng sạch, lo gì quả Phật chẳng đặng viên thành.
2B3. Nghiệp quyết định và nghiệp không quyết định: Nghiệp có hai loại Quyết Định và Không Quyết Định: Có những quả báo mà thời gian thụ báo đã quyết định dứt khoát như tội giết cha, giết mẹ, giết bậc A La Hán, làm chảy máu thân Phật, và phá hoại sự hoà hợp của tăng đoàn thì kiếp sau nhất định phải rơi xuống địa ngục. Có những trường hợp nghiệp gây và báo nhận đều không quyết định đó là trường hợp của những nghiệp nhẹ. Các bậc cao tăng thời xưa có nói: "Hết thảy mọi nghiệp đều không quyết định vì có thể cải thiện." Cũng như có những bệnh rất nặng nhưng nếu gặp lương y giỏi, thuốc hay thì có thể ngăn bệnh và trị hết được. Vì vậy đối với người đã gây nghiệp, thì chỉ cần hạ quyết tâm sám hối tu hành mạnh mẽ thì có cơ chuyển quả báo nặng thành nhẹ như trong nhiều kinh Phật có nói. Kinh Vô Lượng Thọ có nói nếu có người chí thành tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà đến nhất tâm bất loạn, "Cứ mỗi câu Phật hiệu thì sẽ diệt được tám muôn bốn ngàn trọng tội". Hoặc trong kinh Địa Tạng có nói đến: " Thuở quá khứ có Tịnh Nguyệt Phật, Sơn Vương Phật, Trí Thắng Phật, Tịnh Danh Vương Phật, Trí Thành Tựu Phật, Vô Thượng Phật, Diệu Thinh Phật, Mãn Nguyệt Phật, Nguyệt Diện Phật, có bất khả thuyết đức Phật như thế. Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng thuở vị lai: hoặc là Trời hoặc là người nam, hoặc là người nữ chỉ niệm danh hiệu của một đức Phật thôi sẽ được vô lượng công đức, huống nữa là niệm được nhiều danh hiệu. Những chúng sanh đó lúc sanh lúc tử đặng nhiều phúc lợi, không còn phải đoạ vào ác đạo nữa. Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bệnh sắp chết đó mà niệm lớn danh hiệu của một đức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô gián, các tội dư nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả. Còn năm tội lớn vô gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức kiếp cũng không ra khỏi quả khổ, nhưng bởi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch."
Nghiệp tuy lớn nhưng biết sám hối tu tâm dưỡng tánh thì cũng còn có cơ hội giải trừ. Ngược lại tuy chỉ gây ra tội nhỏ về thân miệng ý nhưng không biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì sẽ chuốc lấy khổ báo.
2B4. Định Báo
Định báo là quả báo nhứt định phải chịu, không thể chuyển biến được, trong mười phần thì kết quả chiếm gần hết cả mười, như người bệnh lục phủ ngũ tạng hư hết thì không sao cứu được, xương cốt thịt máu thảy đều hư hoại thì phải để cho chết luôn vì không còn thuốc chửa. Như người xưa có câu:" Dược y bất tử bệnh; tửu bất giải chân sầu" nghĩa là thuốc chỉ trị những bệnh không chết; rượu không thể giải những tâm sự buồn.
Thuở xưa vua Lưu Ly có mối thù giống tộc nên mang binh đánh giết dòng họ Thích, đức Phật biết được chận đường can ngăn ba lần, đến lần thứ ba thì nhà vua cương quyết không tuân lời. Tôn giả Mục Kiền Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì Ngài bảo đó là định nghiệp. Tôn giả Mục Kiền Liên không tin, nên dùng thần thông đem giấu 500 người họ Thích trong cung Trời. Đến khi vua Lưu Ly dẹp xong hàng họ Thích, thì 500 người nầy cũng tan thành máu mà chết. Đây là sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ, người thế gian chớ khinh thường ác nghiệp tạo ra do thân khẩu ý. Không nên buông lung tâm ý phạm nhiều nghiệp tội rồi đọc vài bài kinh sám hối hay niệm năm ba Phật hiệu hay vài câu thần chú mà tự cho mình đã hết tội. Việc làm như vậy không thể làm ngừng được quá trình diễn biến của nghiệp lực vì tự tâm chưa đạt đến Bản Lai Diện Mục , buông bỏ vạn duyên, dẫu có sám hối nhưng định nghiệp không thể vì đó mà mất đi được. Cho nên Chư Phật có ba việc không làm được, gọi là Tam Năng Tam Bất Năng:
1. Chư Phật có thể thông tất cả tướng, thông tất cả Pháp, nhưng không thể diệt được Định Nghiệp. Như trong Sa Di Luật Giải, Ngài Hoa Tụ Bồ Tát nói: " Tội ngũ nghịch và tội tứ trọng ta có thể cứu đặng; còn tội lấy trộm vật của chúng Tăng thì ta không thể cứu đặng".
2. Chư Phật có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ chúng sanh vô duyên (nghĩa là chúng sanh nào không có lòng tin kính ngôi Tam Bảo).
3. Chư Phật có thể độ vô lượng chúng sanh song không thể độ hết chúng sanh giới.
Mặc dù Phật có thập lực bất khả tư nghị, nhưng nếu không thực hành đúng như lời Ngài dạy bảo, thì chư Phật và Bồ tát cũng không thể hoá độ được.
2B5. Bất Định Báo:
Đây là nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi được. Như có kẻ trước kia tạo nghiệp lành như cố gắng học hành làm điều phước thiện nay được đổ đạt làm việc chức cao, đáng lẽ hưởng phú quí vinh hoa suốt cuộc đời, nhưng lại ham mê cờ bạc, tửu sắc, hại người, ham của đút lót nên phước lộc lần lần tiêu tán, tù tội, bệnh hoạn thăm viếng liên miên, vì thế mà khổ đau hay chết sớm. Có những kẻ kiếp trước kém nhân lành nên đời nầy thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu người ấy biết xét nhân quả, tội phước, gắng sửa đổi tâm tánh, hết sức làm việc phước thiện, thì tội chướng lần tiêu giảm, phước đức dần tăng thêm, có thể trong hiện tại chính mình hay con cháu sẽ tiến đến cảnh vinh quang. Nghiệp quả của chúng sanh phần nhiều đều có tính cách bất định. Nếu chúng ta biết gắng sức dùng tâm lực để chuyển nghiệp lực, thì cảnh địa ngục sắp hiện có thể đổi lại thiên đường. Mặc dầu sức của nghiệp lực bất khả tư nghị, nhưng sức của Tâm lực bất khả tư nghị, và sức Phật lực cũng bất khả tư nghị. Trong Phật Tổ Thống Ký còn ghi lại câu chuyện của hai ông Chung Húc và Thiện Hoà đời nhà Đường như sau:
Trương Chung Húc, đời nhà Đường, sống bằng nghề làm thịt gà. Khi sắp chết thấy có người lùa bầy gà đến hô: mổ ! mổ! Bầy gà xúm mổ Húc, mặt mắt đều chảy máu ròng ròng, đau không chịu nổi. Sa môn Hoằng Đạo hay tin bèn đến trương lên tượng Phật , khuyên Húc niệm Phật. Ông Húc liền chí tâm hăng hái niệm Phật. Được giây lát, bổng có mùi hương lạ, thơm ngát cả nhà, bầy gà biếng mất, máu hết chảy. Ông Húc đoan toạ mà mất.
Trương Thiện Hoà, cũng thời nhà Đường, làm nghề giết bò. Lúc bệnh ngặt, thấy vài mươi con bò đến nói bằng tiếng người rằng: "Mày giết chúng tao phải đền mạng!". Ông Hoà hối vợ thỉnh Sư Tăng. Sư Tăng bảo: "Trong Quán Kinh nói: Nếu chúng sanh nào có gây tạo ác nghiệp đáng đoạ vào ác đạo, mà chí tâm xưng niệm A Di Đà Phật đủ mười niệm, thời tiêu tội được vãng sanh Cực Lạc thế giới." Ông Hoà nói :" Lửa địa ngục đến rồi, không thể chờ lư hương được!" Ông liền tay trái cầm lửa, tay phải cầm hương, hướng về hướng Tây hô to tiếng niệm Phật. Chưa đầy mười hơi, ông bỗng nói: " Phật đã đến trao cho tôi toà sen báu". Dứt lời liền tắt thở. (Đường Về Cực Lạc)
3. Điểm giống nhau của tất cả nghiệp:
Nghiệp tuy có nhiều loại khác nhau, nhưng tất cả nghiệp có cùng chung một điểm giống nhau. Đó là : "Tất cả các nghiệp trước khi chịu báo nếu không tu chứng giải thoát thì tự nó không khi nào biến mất được."(Ấn Thuận Đại Sư). Có nghiệp tức có quả báo, kiếp nầy chưa trả thì chờ đến kiếp sau. Cho đến nghìn muôn vạn kiếp, nghiệp báo vẫn không mất mà chờ đợi nhân duyên rồi trổ quả báo liền.
4. Nghiệp cần có phiền não mới chiêu cảm quả báo:
Đoạn nầy nói về Tập đế là nơi tích tập nghiệp nhân và kết hợp với nhân duyên để phát ra nghiệp quả. Vì không có một chánh nhân nào mà tự nó có thể tạo ra quả, mà chánh nhân cần phải có sự xúc tác trợ lực của một số duyên chung quanh thì mới phát sanh ra chánh quả. Cũng như một hạt giống muốn nẩy mầm sanh mọng thì cần có đất, nước, hơi nóng, không khí, khoảng không gian, và chính hột giống, tất cả gọi chung lại là lục đại hay đất, nước, lửa, gió, không, và thức. Thức là bản thân của chánh nhân. Cho nên khi nghiệp tuy đã tích tụ đầy đủ nhưng chưa thể tự phát mà còn cần một nhóm yếu tố quan trọng là chất kích thích. Nhóm yếu tố quan trọng nầy chính là Hoặc tức mê Hoặc. Mê Hoặc hay Hoặc có tên khác là phiền não như trong kinh sách thường nói. Phiền não đây không có nghĩa là lòng ưu phiền đơn giản, mà chính ra nó là nhiều nhóm mê si, thường dẫn tâm trí nhìn thấy vũ trụ nhân sinh một cách sai lạc, khiến cho thần trí mê mờ không phân biệt được đâu là chân lý thật sự, cho nên tạo nhiều mê muội ưu phiền và cuối cùng làm cho nghiệp báo phát sinh. Trong Phật pháp có rất nhiều kinh sách nói về phiền não. Có nhiều loại phiền não: hai phiền não, ba phiền não, bốn phiền não, sáu phiền não, mười phiền não , một trăm lẽ tám phiền não , cho đến tám mươi bốn ngàn phiền não. Sau đây nói về các tướng của phiền não.
a. Hai phiền não:
-Căn bản phiền não và Tuỳ phiền não
- Phân biệt khởi phiền não và Câu sanh khởi phiền não
- Đại phiền não địa pháp và Tiểu phiền não địa pháp
- Sử hành phiền não và Mãnh lợi phiền não
b. Ba phiền não:
- Kiến tư hoặc
- Trần sa hoặc
- Vô minh hoặc
c. Bốn phiền não: Ngã si, Ngã kiến, Ngã mạn, Ngã ái
d. Sáu Phiền não: Tham, sân, si, mạng , nghi , Ác kiến
e. Mười phiền não: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ.
Mỗi phiền não đều có những công năng phát và nhuận sinh nghiệp lực . Sức mạnh của phiền não là kết hợp những nghiệp chiêu cảm sinh tử. Cho nên có rất nhiều chúng sanh vì bị phiền não mà bị nghiệp lực sai khiến nên càng tạo thêm nhiều ác nghiệp khiến cho càng lúc càng rơi sâu vào vòng nhân quả là chốn vô minh, phải chịu vô lượng đau khổ. Chính phiền não làm phát sinh vô minh che đậy sự sáng suốt của Chơn Tâm. Có một thiên đế mới hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: "Tại sao có những người hiểu biết tất cả thiện ác, nghiệp lành dữ mà sao họ không làm điều tốt được? " Ngài Văn Thù Bồ Tát trả lời :" Bởi vì tâm lực họ không đủ mạnh" Tâm lực không đủ mạnh ở đây muốn nói đến lực cản của phiền não. Vậy cái phiền não là gì? Theo Kinh nói ra thì trước hết Ái dục là gốc phiền não. Chính nơi gốc Ái là sự luyến tiếc không buông bỏ mà gìn giữ và đấu tranh, là nguồn gốc của tư hữu, mở đầu cho một thế giới khổ đau. Vì nơi Ái mà Ngã và Ngã sở hiện hữu. Ái đi theo trong Sắc uẩn thì lầm thấy trong sắc uẩn có ngã; Ái đi theo Thọ uẩn thì lầm thấy trong thọ uẩn có ngã, cứ như thế lần lượt Ái đi theo thức uẩn thì lầm thấy trong thức uẩn có ngã. Chúng sanh nhận lầm ngũ uẩn là Ngã nên gọi là Vô Minh. Ngã đã được thành lập thì những gì cho rằng thuộc vào ngã thì gọi là Ngã sở. Lúc ban đầu Ngã và Ngã sở có phân biệt nhưng Ái lực càng tăng thượng nên Ngã và và Ngã sở không còn phân biệt được. Lúc đó khi Ngã sở bị xâm phạm thì tưởng như là Ngã bị thiệt hại. Đó gọi là hiện tượng Vô minh hoặc. Nếu có quá nhiều chúng sanh bị vô minh hoặc thì gọi là trần sa hoặc.
Tự thể của chúng sanh là Không nghĩa là trong tự mỗi một chúng sanh vốn không có một tự thể nào tồn tại độc lập và bất biến. Trong Trung Quán Luận, ngài Long Thọ đã từng nói: "Mọi Pháp mọi vật, không có pháp nào hay vật nào tự mình sanh mình." Vì mọi vật không thể tự sanh ra nên nó cũng không thể sanh ra cái khác nó. Những tiếng Thượng Đế, Đại Ngã, Tiểu ngã, hay linh hồn bất diệt chỉ là danh từ trống rỗng , không có tự tướng. Cũng như có người cho rằng ông Newton là cha đẻ cũa lý thuyết vạn vật hấp dẫn, còn ông Einstein thì được nói là cha đẻ của lý thuyết Tương Đối, hay nói ông Kha Luân Bố là cha đẻ của Mỹ Châu...Thật ra họ không thể sanh ra các lý thuyết khoa học hay sanh ra được Châu Mỹ, mà họ chỉ khám phá ra trước mọi người biết mà thôi. Cũng vậy, theo thật nghĩa thì những danh từ "Thượng Đế", "sanh ra", "tạo ra"... trong tôn giáo cũng không ngoài ý nghĩa người "khám phá" cái đã có sẵn. Đức Phật đã biết tất cả chúng sanh chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn, vốn không chơn thật nghĩa là không có tự tướng bất biến. Cũng như một chiếc xe chỉ là danh xưng rỗng, chính ra, chiếc xe là sự hợp lại của nhiều thành phần như thân xe, bánh xe, máy xe... mà không một thành phần nào riêng nó mà được gọi là một chiếc xe. Rồi mỗi một thành phần của chiếc xe lại là sự kết hợp của những thành phần khác, cứ như thế mà phân mãi thì cuối cùng chiếc xe chỉ là một tổ hợp trống rỗng, trong đó không có chứa đựng một vật gì cả. Con người cũng vậy, do năm uẩn kết mà thoạt trông như có tướng người. Sắc, thọ, tưởng, hành uẩn thuộc về vật chất hay xác thịt, còn thức uẩn thuộc về tinh thần ý thức. Khi hoại khổ đến, con người phải chết thì bốn uẩn trước trả về cho vật chất là đất, nước, lửa, và gió; còn thức uẩn chỉ là loại kiến thức học hỏi vay mượn tạm thời, nương theo căn và cảnh mà xuất phát trong cuộc sống, thì cũng không có cơ sở tồn tại duy trì. Tất cả năm uẩn bao gồm vật chất lẫn tinh thần đồng trở về cát bụi nhưng cái nghiệp lực không bao giờ mất, vì sao? Vì mặc dù ngũ uẩn vốn tự vô chủ nhưng lại có thân sau nhận chịu quả báo vậy. Nói một thí dụ cho dễ hiểu, một con người từ nhỏ đến già, cơ thể và tinh thần đã thay đổi biết mấy vạn lần, hình dáng lúc một tuổi khác với lúc hai tuổi, lúc nhỏ khác với lúc lớn, lúc trẻ khác với lúc già, lúc đau yếu khác với lúc khoẻ mạnh, lúc khổ đau khác với lúc vui vẻ hạnh phúc ... Mặc dầu cơ thể và tinh thần có thay đổi khác nhau hoàn toàn lúc trước và lúc sau, nhưng đâu thể nói rằng lúc trước không phải là tôi, bây giờ mới là tôi; hoặc nói lúc trước là tôi, nhưng bây giờ không phải tôi. Điều đó không thể chấp nhận được. Cũng vậy thân của năm uẩn sau tiếp tục chấp nhận hậu quả mà năm uẩn trước kia gây tạo là chuyện tự nhiên không thể phủ nhận được. Cho nên do sự chấp trước vào Ngã và Ngã sở sẽ tạo ra thân sau hay thân mạng mới cho mỗi chúng sanh. Ngũ uẩn của sát na trước hiển nhiên khác với ngũ uẩn của nơi sát na sau, nhưng không vì thế mà bảo rằng thân sau không phải là thân trước. Nơi thân mạng sau, chúng sanh mang theo nghiệp báo và phiền não của thân mạng trước tiếp tục vòng sanh sanh tử tử, tiếp tục hiện tượng trôi chuyển trong vòng mười hai nhân duyên, sinh tử mênh mông, vô thời hạn gọi là vô thỉ. Vậy diễn rộng ra thì cả thế giới vũ trụ nầy chỉ là một sự duyên hợp, không thể tìm ra một phần tử sơ khởi trong trạng thái bất biến làm nền tảng tạo ra sơn hà đại địa nầy được. Thời Nhà Lý, Đạo Hạnh Thiền sư có làm một bài thơ bốn câu:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
dịch
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian nầy đều không
Kìa xem bóng nguyệt dòng sông
Ai hay không, có; có, không là gì?
Hiểu được Chúng Sanh Không sẽ hiểu được mười tám pháp Không trong bộ Đại Kinh Bát Nhã, cũng là Tánh Không trong tư tưởng Phật đạo. Hiểu được tánh Không thì mới có thể xa lìa được phiền não và vô minh. Vì thế mà biết Tánh Không là Bát Nhã; Bát nhã chính là Tánh Không.
5. Nguyên lý Tánh Không chi phối nghiệp lực như thế nào?
Tuy chúng sanh giới là Không, nhưng trong thế giới nhị nguyên tức là thế giới hiện sinh mà chúng sanh đang sinh hoạt trong từng sát na (1 phần chín mươi của giây) thì nghiệp lực trong một sát na đã trở thành quá khứ nhưng nó không mất đi mà vẫn tồn tại. Vì nghiệp là hạt giống sanh khởi, tổng quát có ba loại nghiệp căn bản là nghiệp thiện (như Thập thiện), nghiệp ác (như Thập ác), và nghiệp vô ký (nghiệp bất động). Sở dĩ gọi là nghiệp bất động vì nghiệp nầy không thiện cũng không ác nên chưa gây ra quả báo. Ba loại nghiệp nầy nhiếp hết tất cả nghiệp tướng của chúng sanh. Ba nghiệp trên còn được thu ra hai loại là Biểu nghiệp và Vô biểu nghiệp để tiện việc nghiên cứu tính chất tồn tại của nó. Những động tác do thân, khẩu, ý gây tạo ra mà chính mình hay người khác có thể thấy biết thì gọi là Biểu Nghiệp như thập thiện , thập ác. Còn những tư tưởng còn tích trữ trong thân tâm có khả năng dẫn phát những động năng còn tìm tàng thì gọi là Vô Biểu Nghiệp. Vậy Vô biểu nghiệp chính là đầu tiên ý nghiệp, khi thực hành thiền định thì ý nghiệp tăng trưởng thành chủ động quyết định cho thân tâm hành giả nên được gọi là Vô biểu nghiệp. Nghiệp thiện, ác, hay vô biểu tuy thấy có khác nhau về hình thức, nhưng có khi mang tính chất lẫn nhau vì do tâm quyết định. Làm lành mà có tâm chí thành, thật lòng thương xót vị tha, không chấp tướng, thì dù một việc lành cũng được toàn đầy. Bằng trái lại, tuy suốt đời hành thiện nhưng tâm chẳng thương xót vị tha, việc gì cũng mong muốn được đáp đền, chấp tướng, tuy suốt đời hành thiện, cũng còn thiếu sót. Như trong Kinh nói, khi đem của giúp người mà trong không thấy người cho, ngoài không thấy người nhận, giữa không thấy vật bố thí của mình, đó gọi là cách bố thí ba luân thể không, một tâm thanh tịnh. Bố thí tam luân thanh tịnh, dù một mảnh vải băng bó vết thương cho một con chim nhỏ, hay một lon gạo cho người đang đói, một chổ ngủ nhờ cho kẻ lỡ đường... cũng tiêu muôn kiếp tội! Nếu như ý còn cầu danh lợi, tâm còn chấp tướng, thì tuy có bố thí, cúng dường ngàn vàng thì phước đức chẳng có là bao. Trong An Sĩ Toàn Thơ của Liểu Phàm tiên sinh có ghi một câu chuyện:
- Xưa ông Vệ Trọng Đạt làm quan Hàn lâm, một đêm nằm mộng thấy Minh Ty bắt về âm cảnh. Quan chủ ty sai dịch đem trình hai bản ghi thiện ác, ông thấy bản ghi ác chất một đống to, bản ghi thiện chỉ bằng chiếc đũa. Nhưng khi đem cân thì bản như đống to lại nhẹ, bản bằng chiếc đũa lại nặng. Trọng Đạt ngạc nhiên nói: "Tôi tuổi chưa đầy bốn mươi, có đâu mà làm nhiều điều ác đến thế?" Minh quan bảo:" Một niệm bất chính là ác rồi, không đợi phải hành phạm." Trọng Đạt lại hỏi :" Trong cuốn giấy bằng chiếc đũa kia, đã ghi những gì?" Minh quan đáp :" Triều đình hưng đại công làm cái cầu đá ở Tam Sơn, ông đã dám thượng sớ can ngăn việc ấy. Cuốn giấy đó là bản sớ của ông." Trọng Đạt nói:" Tôi tuy dâng sớ can ngăn, nhưng bị bác bỏ, sự thật nó chẳng bổ ích được gì, làm sao lại có hiệu lực như thế?" Minh quan nói:" Triều đình tuy không y theo, nhưng một niệm ưu ái của ông đã vì vận nước và muôn dân; giả sử lời sớ kia được chấp nhận, thì công đức ấy lại càng lớn lao hơn nữa!" ( Phật Học Tinh Yếu)
Dù là Biểu nghiệp hay Vô biểu nghiệp, nếu muốn trở thành nghiệp lực đương thời thì phải cần qua sự khởi phát của phiền não thì chủ nhân mới cảm thọ quả báo sinh tử. Cho nên khi chấm dứt mọi sự mê lầm, phiền não không thể phát ra nữa thì mọi hành vi tạo tác đều không trở thành nghiệp lực chiêu cảm sinh tử, gọi là Niết Bàn.
6. Cái gì đã qua hoặc diệt trong một sát na, điều đó không hề có nghĩa là không có gì
Tại sao hành động gây tạo ra nghiệp lực chỉ trong một sát na là đã qua, vậy làm sao lại chiêu cảm hậu quả về sau? Đó là do tánh tương tục của ngũ uẩn. Ngũ uẩn vốn tại nó là Không, nghĩa là không phải là pháp độc lập, mà là pháp duyên hợp, nhưng vì tâm người không thấy được điều đó nên mới nhận lầm là có, nên ngũ uẩn trước diệt thì ngũ uẩn sau sanh và nhận chịu tác động nghiệp từ ngũ uẩn trước. Như cây có hoa nở kết trái xong thì bản thân nó khô héo tàn tạ, nhưng hạt của nó khi hội đủ điều kiện nhân duyên thì nẩy mầm đâm chồi ra thân cây khác. Thân cây khác tuy không phải là cây cũ nhưng lại được xem như là giống loại cũ. Ngũ uẩn cũng vậy, cái cũ đã qua nhưng chúng sanh nhìn ngũ uẩn mới qua tâm thức liên tục thì thấy tương tục như là thân ngũ uẩn cũ. Tính chất tương tục đó tạo ra từ hai tâm sở thọ và tưởng, được vận chuyển bằng con đường hành nghiệp hay hành uẩn, do thức nhận định và tác thành chức năng. Sự huân tập đoạn đường hành nghiệp nầy được lập lại với vô số chu kỳ nên dòng nghiệp lực tự động ký thác vào thân ngũ uẩn kế tiếp. Trong thâm nghĩa của Phật Pháp: cái đã qua, hoặc diệt ngay trong một sát na, điều đó không hề có nghĩa là không có gì, mà chính là từ sự tồn tại hiện thời chuyển hoá thành một trạng khái khác theo tánh tương tục của ý thức. Nên có thể nói quá khứ không phải là không có mà là vẫn tồn tại. Như tiếng chuông khi vang lên đến lúc hết thì gọi là đã diệt, nhưng nó không mất hẳn, vì nếu muốn nghe nó lại nữa thì cứ tiếp tục gõ vào chuông. Tiếng chuông mới không khác tiếng chuông cũ nhưng cũng không phải là tiếng chuông cũ. Nghiệp lực có thể chỉ trong một sát na liền trở thành quá khứ, nhưng nó không mất đi, khi có đủ nhân duyên hội hợp thì nó trở lại, cũng như sau khi âm thanh tiếng chuông vang xong đã mất, nhưng nào có diệt đâu, khi gõ chuông thì tiếng chuông lại ngân lên. Như thế, nếu có đủ phiền não tức nhân duyên hội hợp thì nghiệp sẽ chiêu cảm quả báo, tựa như năng lượng trong điều kiện môi trường thay đổi như nhiệt độ và áp suất thì biến thành vật chất vậy. Còn nếu nhân duyên không hoà hợp có nghĩa là lúc tâm người đắc pháp, mọi phiền não không còn khuấy động được nữa, thì dù có trải qua trăm ngàn vạn kiếp, nghiệp cứ tồn tại vĩnh cửu trong môi trường vắng lặng tịch tĩnh, và nghiệp cũng không hề mất đi, cũng không bị tổn giảm, nhưng không phát động chiêu cảm quả báo được.
Chúng sanh tuỳ theo nghiệp không giống nhau mà chiêu cảm quả báo sanh tử khác nhau, lẫn lộn trong sáu cõi luân hồi: Địa ngục, ngạ quỷ , súc sanh, nhân, A tuLa, và thiên, lại có nhiều đặc tính khác nhau như giòng giống thanh cao, giòng giống thấp hèn, đẹp xấu, khôn ngu, cao lùn, đen trắng, nam nữ, hiền ác....đều do tác động của vô lượng phiền não lên khối vô minh nghiệp lực.
7. Phiền não căn bản
Như thế muốn chuyển hoá nghiệp lực tức là ngăn chận phiền não hay chuyển hoá phiền não chính là mấu chốt đi vào nhà giải thoát. Nói Tập đế chính là nói về nghiệp và phiền não. Nghiệp là nhân mà phiền não là duyên. Cắt đứt mọi trợ duyên thì chánh nhân không thể phát động.
Căn bản phiền não là sáu món lớn mà mọi chúng sanh nào cũng có: Tham , sân, si , mạn ,nghi, ác kiến. Ác kiến là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, và giới thủ cấm. Nói chung sáu căn bản phiền não chính là mười kiết sử làm chúng sanh trong ba cõi bị mê hoặc. Chúng sanh nào trong ba cõi dứt trừ sạch sẽ hết mười kiết sử nầy thì đã chứng đạt vào hàng Tứ Thánh Tiểu Thừa, thân tâm giải thoát vô ngại trong luân hồi sanh tử. Mười phiền não nầy được Phật xếp vào bốn loại phiền não bao quát hơn: Kiến, Ái, Mạn, Vô minh
Si kiến: Sai lầm về nhận thức. Tức sai lầm của Thức (kiến thức thế tục biện minh)
Si ái: Sai lầm về hành động. Tức sai lầm của Tình
Mạn: Biểu hiện về cái Ta (tự ngã) hiện hữu bằng cách nầy hay cách khác và nhân đó mà dẫn đến những hành động tự cho mình là trung tâm, hay khởi ra những phiền não khác như sân, tham... Tức sai lầm của ý chí.
Vô minh: Biểu hiện tổng tướng của mọi phiền não. Vô minh không có nghĩa là không biết. Biết nhưng biết sai lầm. Như chấp trước tự ngã. Cho rằng ngũ uẩn là ngã. Ác Kiến là vô minh, chấp thủ là vô minh...cho đến thấy có mọi phiền não đều là vô minh.
Do đó chuyển hoá phiền não chính là con đường giác ngộ hay con đường đến Bồ đề. Trong kinh Phật thường nói đến chuyển hoá phiền não thành Bồ Đề vì bản tánh phiền não vốn chính là Pháp tánh, là tam muội giải thoát, như trong kinh Đại Bảo Tích có kê ra 28 tam muội mà ba tam muội đầu chính là ba căn bản phiền não: 1. Tham Tam Muội 2. Sân tam muội 3. Si Tam muội... như vậy thì biết tất cả phiền não không phải là phiền não ô nhiễm, mà chính là pháp thanh tịnh, nhưng vì do vô minh kiến chấp nên mọi pháp phiền não trở thành trói buộc. Tuy nhiên điều nầy chỉ để dành cho người minh tâm kiến tánh, trí đức thanh tịnh mới dùng được, còn nếu như chúng sanh chấp ngã nặng nề , nếu cố ý dùng thì tăng thêm ngã mạn, rơi nhanh vào địa ngục như mũi tên bắn.
8. Sự sinh tử không có điểm bắt đầu
Như trên đã nói, nghiệp và phiền não không có sự liên hệ mật thiết thật sự, nghiệp thì tồn tại không mất thuộc về nguyên lý nhân quả tự nhiên như trồng đậu được đậu, trồng bắp được bắp, còn phiền não thì thuộc về kiết sử và vô minh hay gọi là sự mê hoặc. Cả hai này làm nhân duyên kết hợp nhau trong quá khứ, hiện tại, và vị lai tạo ra bức màn vô minh dầy đặc, tức là cái quả mê vô cùng tận. Cái điều đáng nói ở đây là cái sự mê đó không có điểm bắt đầu, nhưng lại có điểm chấm dứt. Giống như khi trong cơn mơ, giấc mộng không có điểm bắt đầu. Như lòng luyến ái, khi nhân duyên đầy đủ thì nhãn thức phát sinh, khi có nhãn thức thì tâm luyến ái yêu đương cũng có ngay từ đó. Cho nên biết cái quả mê vô cùng tận đó khi hội đủ nhân duyên thì có, khi thấy nhân duyên không thật tướng thì hết mê gọi là giác ngộ. Vậy cái gì là nhân duyên lưu chuyển? Chính là thập nhị nhân duyên tức là từ Vô minh mà sanh hành nghiệp; từ hành nghiệp sanh tâm thức là cái ái nhiễm của di truyền nghiệp tướng ; từ thức sanh danh sắc tức là hai phần tâm linh và thân xác trong đó tâm linh là phần ái nhiễm thuộc về trí, còn sắc là phần ái nhiễm thuộc về vật chất, cả hai gọi chung là ngũ uẩn; danh sắc sinh ra lục nhập tức sáu nơi hiểu biết là tai, mắt, mũi, miệng thân, và ý. Lục nhập còn gọi là sáu căn vì danh sắc đối với sáu cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp mà thích ứng kết tạo ra lục căn là do nơi sự điều động ở phần thức biến là tâm ái nhiễm mà di truyền nghiệp tướng trong quá trình lâu dài. Khi nhận thức được lục nhập từ sáu căn, tức có đầy đủ, có khiếm khuyết căn thân, có tiếp xúc nhận thức được nóng, lạnh, đói, no, tự tại hay bức xúc.... Từ xúc mà sanh thọ cảm là tánh nhận vào hay loại ra, ghét hay thương, yêu hay ghét...nơi đây mọi tâm trạng vui buồn hạnh phúc hay khổ đau trùng trùng sanh khởi vì do xúc có vô số tác động tiếp nhơn đối vật. Thọ chính là ý niệm về Ngã được hình thành, thọ vui, thọ buồn, thọ không vui không buồn, tất cả đều là phàm ngã, vì cái ngã nầy vốn được thành lập nữa chừng trong luật nhân quả. Vì vậy cái ngã nầy đâu phải là cái ta chân thật, mà chỉ là danh xưng của thọ có cái gốc sâu xa là Ái kiến. Đối với thế gian phàm phu thì đã vội vàng chấp nhận Thọ là Ngã; đối với người có tri kiến chưa giải thoát thì lại nhận Ái chính là Ngã. Cái mê lầm về ngã tạo tam giới từ địa ngục cho tới 28 tầng thiên đường. Thọ lại sanh ái. Ái nầy là kết quả ái trong chu kỳ vòng nhân duyên sanh khởi trước, nay có nhân duyên Thọ mà lại sanh ra để sẳn sàng tạo ra một vòng nhân duyên mới trong kiếp sống luân hồi. Ái lại sanh thủ là tâm muốn giữ gìn điều ưa mến. Nơi đây là tâm sở hữu được thành lập. Thế là Ngã và ngã sở trọn vẹn thành hình, nghiệp lực tái sanh ở kiếp sau cũng bắt đầu phát động. Thủ không thể tự đứng đơn độc, cũng như đói không thể không ăn, thủ sanh hữu là sự chiếm giữ cho riêng mình, tiếng thế gian gọi là quyền lợi hay quyền tư hữu, tức là lòng ham muốn. Chúng sanh luôn có những quyền lợi bất đồng và tánh tham nặng nề nên từ đây mới có đấu tranh giành giựt chém giết, bất công xảy ra trong thế giới tạo ra, bốn nhân duyên còn lại là sanh, lão, bệnh, và tử. Vòng thập nhị nhân duyên đi theo chiều thuận thì làm sáng tỏ Khổ và Tập đế. Nhìn vào đây thì thấy rõ chổ mê lầm về Ngã và Ngã sở vốn không thật tướng, mà cái bắt đầu của sinh tử luân hồi vốn không thật có, như người lạc đường do quên chú ý phương hướng, không có cái bắt đầu quên mà có quên, đến khi bình tâm định hướng lại thì cái mê quên kia không còn nữa. Ngã và ngã sở do mê mà lập cho nên thấy có sanh diệt, đến chừng khi thấy được tánh giả lập của Ngã và ngã sở thì chợt tỉnh mới thấy được cái Vô sanh.
No comments:
Post a Comment