Khoảng năm 1903, lúc ngài Hư Vân Hoà Thượng đã được 64 tuổi, đang ngồi tu dưỡng trong tư thất, ở Hồng Kông, có một vị tăng từ chùa Nghinh Tường đến trao cho ngài một con gà trống lớn. Vị tăng nói:
-Con gà nầy rất hung hăng ưa đánh đá những con gà chung quanh làm cho chúng lớp chết, lớp tả tơi mào, cánh. Nay xin Hoà Thượng khai thị cho nó?
Ngài Hư Vân nhận lời, liền vì con gà nầy mà quy y và trao giới cho nó. Sau đó Ngài lại dạy nó niệm Phật.
Ngày nào Ngài cũng dẫn con gà tới trước chánh điện mà bảo nó niệm Phật, rồi cho nó ăn uống đầy đủ. Chẳng bao lâu, nó không còn hung hăng, và thường nhảy lên nhánh cây đứng một mình, không còn đào sới tìm ăn sâu bọ nữa. Ngay cả đồ ăn của người ta cho, nó cũng không ăn, mà chỉ chờ ăn đồ chay từ chùa. Cứ hể mỗi lần có tiếng chuông hay tiếng khánh từ chùa vọng ra, thì nó theo về nơi chánh điện mà đứng nhìn các tượng Phật, xong rồi trở về cội cây mà ở. Các Phật tử đi ngang nói đùa với nó: A Di Đà Phật, thì nó trả lời: Phật... Phật... Phật....
Con gà cứ sống như thế từ ngày đến chùa đã được hai năm. Một hôm sau khoá lễ buổi tối, nó đứng yên, ngẩng đầu niệm Phật rồi đứng mà chết dưới sự chứng kiến của tăng chúng và ngài Hư Vân Hoà Thượng. Tăng chúng thấy việc lạ lùng, nên cứ để cho con gà đứng yên trong chánh điện đến mấy ngày mà thân xác của nó cũng không thay đổi, sau cho họ mới để con gà vào một hộp gỗ mà chôn. Bấy giờ ngài Hư Vân Hoà Thượng vì con gà mà làm một bài thơ lưu chứng cho hậu thế như sau:
Hiếu đấu thành tánh thử kê hùng,
Thương quan bạt vũ, huyết lưu hồng.
Tri uý, phụng giới cuồng tâm hết,
Tố thực cô thê, bất hại trùng.
Lưỡng mục chiêm ngưỡng hoàng kim tướng,
Niệm Phật ác ác hà thung dung.
Toàn nhiễu tam phác yêm nhiên hoá,
Chúng sanh dữ Phật tướng vô đồng.
Hư Vân Hoà Thượng, Quang Tự Thứ 9, Quí Mão
Sau có người dịch bài kệ nầy như sau:
Hung hăng thành tánh chú gà hùng,
Dập mào, rách cánh máu ròng ròng.
Biết lo trì giới cuồng tâm hết,
Ăn lạt, ngủ riêng chẳng hại trùng.
Mắt trừng chiêm ngưỡng hoàng kim tướng
Ó o niệm Phật thật thung dung.
Đi vòng vỗ cánh an nhiên mất,
Chúng sanh cùng Phật sao chẳng đồng?
Cuộc đời của ngài Hư Vân Hoà Thượng rất kỳ dị, ít người rõ biết, là bậc thầy trước Ấn Quang Đại Sư và Thái Hư Đại Sư. Ngài sanh ra năm 1840 tại Tuyền Châu. Khi sinh ra đời, mẹ mất sớm, cha giao ông lại cho người mẹ kế nuôi dưỡng. Năm 1851, khi được 12 tuổi, ngài theo cha đi Đài Loan trên một chiếc thuyền có vài chục người. Giữa biển cả mênh mông, mọi người đồng nhìn thấy có một con thuỷ quái rất lớn như một ngọn đồi từ nước nhô lên, cách thuyền chừng vài chục mét. Bấy giờ mọi người kinh hãi đồng chấp tay niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Thuyền đi nửa giờ mới thấy được cái đuôi con thuỷ quái nầy có hình đuôi cá, chiều dài rất xa không biết là bao nhiêu mét. Từ đó Ngài chú ý về danh hiệu Đức Quán Thế Âm, và thường sưu tầm kinh sách Phật pháp.
Đến lúc năm Ngài được 14 tuổi, người cha của Ngài, thầm đoán con mình có ý xuất gia, nên muốn lưu Ngài lại để nối dòng vì Ngài là đứa con duy nhất. Ông ta liền cho thỉnh một vị thầy họ Vương nổi tiếng trong nhóm Đạo Gia, chuyên dạy Tiên Thiên Đại Đạo, luyện khí công, dạy pháp dưỡng thần tại gia. Nhưng Ngài không bằng lòng mà không dám nói ra vì sợ cha buồn. Một hôm người bận việc quan chức, nên giao Ngài lại cho người chú trông coi.
Ngài ở với chú ba năm được 17 tuổi. Tuy ở nhà đọc sách Đạo Gia hơn ba năm, nhưng Ngài nhận thấy kinh Tiên không phải là việc rốt ráo, ngồi vận công luyện khí bất quá là chuyện giới hạn trăm năm. Nhân lúc người chú có việc đi xa, Ngài bỏ nhà đi Nam Nhạc, nhưng đến nửa đường gặp người thân khác dẫn Ngài trở về nhà lại.